Bài giảng Quản trị ngân hàng thương mại - Bài 1: Tổng quan về ngân hàng và hoạt ngân hàng

Nội dung

Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng

bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài

chính nói riêng. Trong bài này, chúng ta sẽ nghiên cứu về quá trình hình thành và phát

triển của ngân hàng, chức năng và vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế ngày nay. Bên

cạnh đó, chúng ta sẽ nghiên cứu tính đặc thủ của hệ thống ngân hàng Việt Nam.

Mục tiêu

 Giúp sinh viên nắm được lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng.

 Hiểu và giải thích các chức năng của ngân hàng.

 Nắm vững các nghiệp vụ, sản phẩm mà ngân hàng cung cấp để hiểu được vai trò của

ngân hàng trong nền kinh tế.

 Hiểu và phân biệt các loại hình ngân hàng.

 Biết được lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam.

pdf 23 trang phuongnguyen 240
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Quản trị ngân hàng thương mại - Bài 1: Tổng quan về ngân hàng và hoạt ngân hàng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Quản trị ngân hàng thương mại - Bài 1: Tổng quan về ngân hàng và hoạt ngân hàng

Bài giảng Quản trị ngân hàng thương mại - Bài 1: Tổng quan về ngân hàng và hoạt ngân hàng
 Bài 1: Tổng quan về ngân hàng và hoạt ngân hàng 
01_NEU_FIN504_Bai1_b3_v1.0013110211 1 
BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG VÀ HOẠT ĐỘNG 
NGÂN HÀNG
Hướng dẫn học 
Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau: 
 Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia 
thảo luận trên diễn đàn. 
 Đọc tài liệu: 
1. Giáo trình Quản trị Ngân hàng thương mại, PGS. TS. Phan Thị Thu Hà, NXB Giao 
thông vận tải. 
2. Tiền tệ, Ngân hàng và Thị trường tài chính, Frederic S.Mishkin, NXB Khoa học 
Kỹ thuật, 2001. 
 Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc qua email.
 Trang Web môn học. 
Nội dung 
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng 
bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài 
chính nói riêng. Trong bài này, chúng ta sẽ nghiên cứu về quá trình hình thành và phát 
triển của ngân hàng, chức năng và vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế ngày nay. Bên 
cạnh đó, chúng ta sẽ nghiên cứu tính đặc thủ của hệ thống ngân hàng Việt Nam. 
Mục tiêu 
 Giúp sinh viên nắm được lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng. 
 Hiểu và giải thích các chức năng của ngân hàng. 
 Nắm vững các nghiệp vụ, sản phẩm mà ngân hàng cung cấp để hiểu được vai trò của 
ngân hàng trong nền kinh tế. 
 Hiểu và phân biệt các loại hình ngân hàng. 
 Biết được lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam. 
 Bài 1: Tổng quan về ngân hàng và hoạt ngân hàng 
2 01_NEU_FIN504_Bai1_b3_v1.0013110211 
Tình huống dẫn nhập 
Cỗ máy kỳ diệu nhất của tạo hóa chính là cơ thể một con người. Vậy để vận hành “thể chế” 
này, chúng ta cần có một nguồn năng lượng nuôi dưỡng, cung cấp cho cỗ máy đó. Và hệ tuần 
hoàn với trái tim mình đã mang những chất dinh dưỡng thiết yếu nhất chứa đựng trong dòng 
máu ngọt lành đến các cơ quan trong cơ thể này. 
Với vai trò là phát minh quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng đóng 
vai trò là trái tim, là nhịp đập của nền kinh tế. Huy động vốn từ những người có tiền nhàn rỗi 
để “nuôi dưỡng” các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế. 
1. Vậy cụ thể ngân hàng là gì? Chức năng của ngân hàng trong nền kinh tế ra sao? 
2. Các dịch vụ chính của ngân hàng trong nền kinh tế? 
 Bài 1: Tổng quan về ngân hàng và hoạt ngân hàng 
01_NEU_FIN504_Bai1_b3_v1.0013110211 3 
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng 
1.1.1. Lịch sử hình thành 
Vào khoảng ba nghìn năm trước Công nguyên. Hình thức ngân hàng sơ khai được 
nhiều nhà sử học cho rằng đã hình thành trước khi con người phát minh ra tiền. Ban 
đầu, tài sản gửi tại "ngân hàng'' là các loại ngũ cốc, sau đó là gia cầm, nông sản, rồi 
đến kim loại quý như vàng. Đền thờ là nơi an toàn để cất trữ tài sản. Đó là các công 
trình được xây dựng kiên cố, thường xuyên có người tới hành lễ. Và xét về tâm linh 
thì ngay những tên trộm táo tợn nhất cũng có ý tránh chốn linh thiêng này. 
Tại Ai Cập và Mesopotamia, vàng được gửi vào các 
đền thờ. Nhưng những tài sản quý giá này lại ngủ yên 
trong đó, trong khi, ở bên ngoài xã hội, các nhóm 
thương nhân và hoàng tộc lại rất cần sử dụng chúng. 
Các nhà khảo cổ học tìm được những tàng tích cho 
thấy tới đầu thế kỷ 18 trước công nguyên, tại Babylon, 
dưới thời trị vì của Hammurabi, thầy tu trông giữ đền 
thờ bắt đầu cho các nhà buôn mượn tài sản cất trữ trong 
đền. Khái niệm ngân hàng ra đời. 
Hoạt động tín dụng ngân hàng phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ thứ 4 trước công 
nguyên ở vùng Địa Trung Hải. Tại Ai Cập, từ rất sớm, ngũ cốc đã được sử dụng như 
một loại tiền tệ bên cạnh kim loại quý (vàng và bạc). Các kho chứa ngũ cốc của triều 
đình thực hiện chức năng của ngân hàng. Khi đế chế Hy Lạp chinh phục Ai Cập, thời 
kỳ trị vì của hoàng gia Ptolemies (330-323 B.C.), những kho chứa nằm rải rác được tổ 
chức lại thành một hệ thống ngân hàng ngũ cốc, và được quản lý tập trung tại 
Alexandria- nơi ghi chép và lưu trữ tài khoản của các tất cả các ngân hàng ngũ cốc. 
Mạng lưới ngân hàng này hoạt động như hệ thống tín dụng thương mại, trong đó, việc 
thanh toán được thực hiện bằng ghi sổ từ tài khoản này sang tài khoản khác mà không 
cần chuyển tiền trên thực tế. Đây chính là bản chất và hình thức đầu rõ ràng nhất của 
các nghiệp vụ bù trừ hay thanh toán điện tử của các ngân hàng hiện đại. 
Thành Rome cổ đại đã hoàn thiện các qui tắc và thủ tục hành chính của ngân hàng, 
cũng như các tổ chức và giao dịch tài chính. Lãi suất tiền vay và lãi tiền gửi được sử 
dụng rộng rãi với kỹ thuật tính toán phát triển và trong môi trường cạnh tranh. Trong 
thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên, các khoản nợ được coi là đã chính thức thanh toán sau 
khi số tiền tương ứng đã chuyển tới ngân hàng. Nhà nước La Mã bổ nhiệm công 
chứng viên ghi nhận các giao dịch ngân hàng. Tuy vậy, sự phát triển của các ngân 
hàng La Mã gặp phải cản trở lớn từ thói quen sử dụng tiền mặt trong giao dịch của 
người La Mã. Trong thời gian trị vì của Gallienus (260-268 sau Công nguyên), hệ 
thống ngân hàng La Mã từng bị gián đoạn sau khi các ngân hàng từ chối tiền bằng 
đồng mà vị Hoàng đế cho đúc ra. 
Khi đế chế La Mã suy vong, các hoạt động thương mại giảm đáng kể nên các ngân 
hàng cũng không còn cần thiết. Thêm vào đó, giáo lý Cơ đốc cổ ngăn cấm thực hiện 
các giao dịch ngân hàng và coi việc tính lãi (cả với tiền gửi và tiền cho vay) là không 
Đền thờ Bel ở Mesopotamia 
 Bài 1: Tổng quan về ngân hàng và hoạt ngân hàng 
4 01_NEU_FIN504_Bai1_b3_v1.0013110211 
có đạo đức. Sau khi La Mã sụp đổ, hoạt động ngân hàng bị cấm tại Tây Âu và chỉ 
được phục hồi trở lại vào thời điểm các cuộc thập tự chinh xuất hiện. 
Trong suốt thế kỷ 13, các nhà ngân hàng ở bắc Italy, được biết tới tên gọi chung 
''những người Lombards'', dần thay thế vai trò của người Do Thái trong hoạt động 
truyền thống: cung cấp tiền bạc cho những người giàu có và quyền lực, các hoàng gia 
Châu Âu. Kỹ năng kinh doanh của ngân hàng được phát triển với phát kiến về nghiệp 
vụ ghi sổ kép và cách thức bù trừ nghĩa vụ tín dụng của khách hàng trên ghi chép sổ 
sách giữa các ngân hàng trong hệ thống, vốn được các ngân hàng ở Genoa áp dụng từ 
thế kỷ 12. Cách thức kế toán sáng tạo này giúp họp tránh được “tội lỗi'' cho vay nặng 
lãi được qui định trong giáo lý Cơ đốc. Lợi nhuận của khoản vay được ghi trong các 
tài khoản dưới dạng quà tặng tự nguyện của người vay hoặc phần thưởng cho những 
rủi ro mà nhà ngân hàng đã trải qua. Hẳn nhiên, những món quà và phần thưởng của 
các hoàng tộc đứng đầu châu Âu không bao giờ có giá trị nhỏ. 
Các ngân hàng tại Siena và Lucca, Milan và Genoa 
đều thu lợi từ những thương vụ mới này. Nhưng xứ 
Florence mới thực sự chiếm phần lớn nhất. Hệ thống 
ngân hàng Florence thống lĩnh hệ thống tài chính quốc 
tế nhờ đồng tiền vàng florin nổi tiếng. Được đúc lần 
đầu tiên vào năm 1252, đồng florin nhanh chóng nhận 
được sự tín nhiệm và công nhận rộng rãi, thực sự trở 
thành đồng tiền mạnh (hard currency) vào thời đó. 
Các ngân hàng xứ Florence đảm bảo dịch vụ này nhờ số lượng chi nhánh ở khắp nước 
Italia và tại các trung tâm buôn bán lớn của châu Âu. Tới đầu thế kỷ 14, hệ thống ngân 
hàng Bardi đã hiện diện tại Barcelona, Seville và Majorca; Paris, Avignon, Nice và 
Marseilles; London, Bruges, Constantinople, Rhodes, Cyprus và Jerusalem. 
Quyền lực của xứ Florence còn được củng có bởi những khoản nợ lớn mà các chủ 
ngân hàng ở đây đang nắm giữ. Con nợ, không ai xa lạ, chính là các vị Hoàng đế uy 
quyền bậc nhất châu Âu. Cũng chính vì lẽ đó, không lâu sau, các ngân hàng này rơi 
vào cảnh tồi tệ. 
Năm 1340, vua Edward III của nước Anh thực hiện thương vụ cực kỳ tốn kém: cuộc 
chiến với nước Pháp, sự khởi đầu của một thế kỷ chiến tranh. Vị Hoàng đế vay rất 
nhiều tiền từ xứ Florence. Nhà Peruzzi cho vua Edward III vay 600.000 florin vàng 
còn nhà Bardi cung cấp khoản vay 900.000 florin vàng. Tới năm 1345, nhà vua vỡ nợ 
và cả hai dòng họ ngân hàng Florence cũng lâm vào cảnh phá sản. 
Hoạt động ngân hàng trong thế kỷ 16 cũng không tránh khỏi rủi ro này. Trong khi 
nhiều ngân hàng lớn của Đức và Italia cho các vương triều Châu Âu mượn tiền thì 
việc thu hồi các khoản nợ gặp rất nhiều khó khăn. Hỗ trợ cho bên chiến bại đồng 
nghĩa với việc người vay tiền sẽ bị xử tử và lãnh địa của họ bị tàn phá bởi các đạo 
quân vô cùng hung hãn. Cũng không kém phần nguy hiểm, ngay cả các hoàng gia lớn 
cũng có thể sử dụng quá mức nguồn lực tài chính của mình và thường dẫn tới kết cục 
vỡ nợ. Vua Philip II của Tây Ban Nha đã phải tuyên bố phá sản vào năm 1557. Hậu 
quả tại hại của sự kiện này là các ngân hàng lớn của Đức đều bị tổn thất nặng nề. 
Đồng tiền vàng florin
 Bài 1: Tổng quan về ngân hàng và hoạt ngân hàng 
01_NEU_FIN504_Bai1_b3_v1.0013110211 5 
Năm 1587, Banco della Piazza di Rialto mở cửa tại Venice với tư cách một sáng kiến 
của nhà nước. Mục tiêu của nó là cất giữ an toàn các khoản tiền của thương nhân và 
đảm bảo các giao dịch tài chính giữa Venice và đối tác ở bất kỳ đâu mà không thực 
hiện di chuyển vật lý của tiền đúc. 
Venice, sau khi là thành phố đầu tiên lập ngân hàng cho việc giữ tiền và thanh toán bù 
trừ séc, cũng đi tiên phong trong việc cho phép một ngân hàng can dự vào tài chính 
chính phủ. Năm 1617, Banco Giro được thành lập để giải quyết các vấn đề mà Banco 
della Piazza di Rialto để lại sau khi thực hiện những khoản cho vay không đảm bảo. 
Con nợ của ngân hàng chính là nhà nước Venice. Banco Giro ra đời trên nguyên tắc 
những chủ nợ của chính phủ chấp nhận nợ được thanh toán dưới dạng tín dụng với 
ngân hàng mới. Để giải quyết một vấn đề trước mắt, những cơ hội mới được tạo ra. 
Venice đã có một cơ chế tạo nguồn quỹ tài chính công trên cơ sở các khoản tín dụng 
được đảm bảo. 
Mở rộng khái niệm này theo logic đưa tới khái niệm ngân hàng quốc gia, được thành 
lập dưới dạng các liên kết với chính phủ. Ngân hàng quốc gia đầu tiên ra đời là Ngân 
hàng Thụy Điển (Bank of Sweden), thành lập năm 1668. Cho tới nay ngân hàng này 
vẫn hoạt động và thường được nhắc tới với tư cách tổ chức xét và trao Giải thưởng 
Khoa học Kinh tế Tưởng nhớ Alfred Nobel. Cũng rất lâu đời và giữ vai trò quan trọng 
trong lịch sử ngân hàng thế giới là Ngân hàng Anh (Bank of England) được thành lập 
năm 1694, ban đầu là một công ty cổ phần, với thương vụ đầu tiên là thu xếp khoản 
nợ 1,2 triệu bảng được vua nước Anh Willam sử dụng trong cuộc chiến với Louis XIV 
của Pháp (Ellen Hodgson Brown, 2008. Web of Debt). 
Tiền giấy xuất hiện lần đầu tiên tại châu Âu vào thế kỷ 17 tại Thụy Điển, vài năm 
trước khi ngân hàng quốc gia đầu tiên ra đời. Năm 1656, Johan Palmstruch lập 
Stockholm Banco. Dù đây là ngân hàng tư nhân nhưng có mối liên hệ rất mật thiết với 
Nhà nước. Một nửa lợi nhuận của ngân hàng này là khoản phải trả cho Bộ tài chính 
của Hoàng gia Thụy Điển. Năm 1661, sau khi thảo luận cùng chính phủ Thụy Điển, 
Palmstruch nhận được quyền phát hành giấy tín dụng có thể trao đổi. Khi đưa giấy 
này tới ngân hàng của Palmstruch, một số lượng tiền xu đúc bằng bạc đã được định 
trước sẽ được trao cho người xuất trình. 
Giấy bạc Palmstruch được thiết kế rất ấn tượng. In trên 
mặt giấy là 8 chữ ký. Nếu đạt đủ lòng tin của dân 
chúng, đó sẽ là loại tiền tệ lý tưởng. Giấy bạc này có 
thể được sử dụng để mua hàng hóa trong chợ nếu từng 
người nắm giữ nó cùng có chung niềm tin rằng sẽ đổi 
được môt lượng tiền đúc thực sự khi cầm giấy đến 
ngân hàng. 
Nhưng tai họa đã xảy ra. Palmstruch phát hành nhiều 
tiền giấy hơn số bạc có thể đổi cho khách hàng. Đến 
năm 1667 Palmstruch bị thất sủng, và đối diện với án tử hình, sau đó được giảm nhẹ 
xuống phạt tù, do gian lận. 
Các hệ thống ngân hàng vẫn tiếp tục phát triển cùng sự tiến bộ của xã hội loài người 
với vai trò và ảnh hưởng ngày một quan trọng và sâu sắc hơn. Lịch sử thế giới đương 
Tiền giấy 1661 
 Bài 1: Tổng quan về ngân hàng và hoạt ngân hàng 
6 01_NEU_FIN504_Bai1_b3_v1.0013110211 
đại đang chứng kiến những biến cố lớn về kinh tế, chính trị, và xã hội với căn nguyên 
sâu xa bắt đầu từ những trục trặc của hệ thống ngân hàng quốc tế. Các phần nội dung 
tiếp theo giới thiệu những nguyên lý vận hành căn bản của hệ thống ngân hàng. Từ đó, 
phần nào kiến giải cùng độc giả bản chất diễn biến phức tạp trên các thị trường tài 
chính-tín dụng toàn cầu trong năm 2008. Đây cũng là những nền tảng để tiếp tục quan 
sát và dự báo những biến chuyển kinh tế Việt Nam và thế giới trong giai đoạn tiếp theo. 
Lịch sử ngân hàng của thế giới có điểm thú vị là các hệ thống ngân hàng quyền lực 
nhất luôn thuộc về dòng họ hoặc một nhóm người có chung tôn giáo, nguồn gốc địa 
lý. Sự phát triển của hệ thống ngân hàng đi liền với các hoạt động thương mại nở rộ. 
Tuy vậy, các nhà ngân hàng thu lợi rất lớn từ các hoàng tộc, triều đình, và Nhà nước. 
Những lợi ích này bao gồm cả của cải vật chất và quyền lực chính trị. Cho tới thế kỷ 
20 và 21, ngay cả khi nền kinh tế toàn cầu đã đạt tới qui mô vô cùng lớn về giá trị tiền 
tệ, và các thể chế chống độc quyền quốc tế được áp dụng rộng khắp, hệ thống tài 
chính-ngân hàng quốc tế về cơ bản vẫn nằm dưới sự kiểm soát của một nhóm đại gia 
tộc kinh doanh tiền tệ. 
1.1.2. Lịch sử phát triển 
Hoạt động ngân hàng đầu tiên - ngân hàng của các thợ 
vàng, hoặc ngân hàng của những kẻ cho vay nặng lãi - 
thực hiện cho vay với các cá nhân, chủ yếu là những 
người giàu: quan lại, địa chủ... nhằm mục đích phục vụ 
tiêu dùng. Nhiều chủ ngân hàng lớn còn mở rộng cho 
vay đối với vua chúa, nhằm tài trợ một phần nhu cầu 
chi tiêu cho chiến tranh. Hình thức cho vay chủ yếu là 
cho phép khách hàng chi nhiều hơn số tiền gửi tại ngân 
hàng, một hình thức cho vay có nhiều rủi ro. Do lợi 
nhuận từ cho vay rất cao, nhiều chủ ngân hàng đã lạm 
dụng ưu thế của chứng chỉ tiền gửi (lưu thông thay 
vàng hoặc bạc), phát hành chứng chỉ tiền gửi khống để 
cho vay. Thực trạng này đã đẩy nhiều ngân hàng đến 
chỗ mất khả năng thanh toán và phá sản. 
Sự sụp đổ của các ngân hàng gây khó khăn cho hoạt động thanh toán, ảnh hưởng xấu 
tới hoạt động buôn bán. Hơn nữa, lãi suất cao nên những nhà buôn không thể sử dụng 
nguồn vay này. Trước tình hình đó nhiều nhà buôn góp vốn lập ngân hàng, với chức 
năng chủ yếu là tài trợ ngắn hạn (tài trợ cho tài sản lưu động), và thanh toán hộ, gắn liền 
với quá trình luân chuyển của tư bản thương nghiệp. Ngân hàng này được gọi là ngân 
hàng thương mại. Ngân hàng thương mại thực hiện các hoạt động như huy động tiền 
gửi, thanh toán, cất giữ hộ, và chủ yếu cho các nhà buôn vay dưới hình thức chiết khấu 
thương phiếu. Đây là các khoản cho vay ngắn hạn, dựa trên quá trình luân chuyển của 
hàng hoá với lãi suất phải thấp hơn lợi nhuận được tạo ra do sử dụng tiền vay. 
Tại mỗi nước, trong những điều kiện lịch sử cụ thể đã hình thành nên nhiều loại hình 
ngân hàng khác như ngân hàng tiền gửi, ngân hàng tiết kiệm, ngân hàng phát triển, ngân 
hàng đầu tư tạo nên hệ thống các ngân hàng. Trong đó, trừ ngân hàng trung ương có 
 Bài 1: Tổng quan về ngân hàng và hoạt ngân hàng  ... n hàng. 
1.7. Tổ chức bộ máy và điều hành của ngân hàng 
Ngân hàng là một doanh nghiệp. Tuỳ theo qui mô hoạt động, hình thức sở hữu và 
chiến lược hoạt động mà mỗi ngân hàng phải tìm hình thức tổ chức phù hợp. 
Tổ chức bộ máy của ngân hàng cổ phần không sở hữu công ty 
 Bài 1: Tổng quan về ngân hàng và hoạt ngân hàng 
01_NEU_FIN504_Bai1_b3_v1.0013110211 17 
Tổ chức bộ máy của ngân hàng lớn, sở hữu cùng ty thường gồm nhiều bộ phận (phòng 
ban, khối), các công ty con, công ty liên doanh, chi nhánh hơn ngân hàng nhỏ và 
không sở hữu công ty 
Tổ chức bộ máy của ngân hàng cổ phần sở hữu công ty 
Ngân hàng lớn thường có nhiều chi nhánh, sở hữu nhiều công ty, hoạt động trên nhiều 
lĩnh vực, thị trường, và có thể có nhiều chi nhánh ở nước ngoài. Ngân hàng lớn cung 
Hội đồng quản trị và bộ máy giúp việc 
Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc 
Các đơn vị thành viên 
Đơn vị hạch toán độc lập: 
- Công ty kinh doanh mỹ 
nghệ, vàng bạc, đã quí 
- Công ty cho thuê tài chính 
- Công ty chứng khoán 
Đơn vị hạch toán sự nghiệp: 
-Trung tâm đào tạo nghề 
- Trung tâm tin học 
-Trung tâm thông tin phòng 
ngừa rủi ro 
Các Chi nhánh 
Các Phòng giao dịch 
Khối 
văn 
phòng 
Khối 
tổng 
kiểm 
soát 
Khối tổ 
chức cán 
bộ, đào 
tạo 
Khối kinh 
doanh 
đối 
ngoại 
Khối kinh 
doanh đối nội 
Khối kế 
toán tài 
chính 
Khối kế 
hoặc - thị 
trường 
Đại hội cổ đông 
Đại hội cổ đông 
Hội đồng quản trị 
Ban giám đốc 
Văn 
phòng 
Tín 
dụng 
Kế 
toán 
Thanh toán 
quốc tế 
Ngân quĩ Kiểm soát 
nội bộ 
Đầu tư và phát triển CHội đồng quản trị 
và bộ máy giúp việc 
Phòng 
giao dịch 
Chi nhánh 
Ban 
kiểm soát 
 Bài 1: Tổng quan về ngân hàng và hoạt ngân hàng 
18 01_NEU_FIN504_Bai1_b3_v1.0013110211 
cấp dịch vụ bán buôn có những khách hàng lớn (tổng công ty, các tập đoàn kinh tế... ). 
Vì vậy, tổ chức bộ máy của ngân hàng phải mang tính chuyên môn hoá cao. Tại các 
phòng chuyên môn tập trung các chuyên gia về tư vấn, nghiên cứu thị trường, phân 
tích tài chính công ty, ngành, quốc gia, các chuyên gia về cho vay, chứng khoán, luật, 
nhân sự, công nghệ... 
Mô hình tổ chức của chi nhánh 
Tổ chức bộ máy của ngân hàng lớn còn thể hiện ở tổ chức bộ máy của các đơn vị 
thành viên. Các chi nhánh của ngân hàng lớn bao gồm nhiều phòng chuyên sâu như 
tín dụng công ty, tín dụng tiêu dùng, thẩm định và bảo lãnh, kế toán và thanh toán 
quốc tế, uỷ thác,... 
Các ngân hàng nhỏ thường ít chi nhánh, hoạt động trong phạm vi địa phương, nghiệp 
vụ kém đa dạng. Để thích ứng với qui mô nhỏ, ngân hàng thường tổ chức bộ máy gọn, 
mỗi phòng có thể kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ ví dụ phòng tín dụng vừa cho vay 
doanh nghiệp vừa cho vay tiêu dùng, vừa phân tích dự án... Ngân hàng nhỏ đòi hỏi 
mỗi cán bộ phải thông thạo nhiều công việc. So với ngân hàng lớn, mỗi liên kết giữa 
các phòng của ngân hàng nhỏ chặt chẽ hơn, khả năng kiểm soát của Ban giám đốc đối 
với các bộ phận cao hơn. 
Tổ chức bộ máy của ngân hàng thường phải phân định rõ ràng chức năng nhiệm vụ 
của Hội đồng quản trị (quản trị điều hành) và Ban Tổng giám đốc (quản trị kinh 
doanh), phân tách hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ nhằm đảm bảo an toàn, hạn 
chế rủi ro trong ngân hàng. 
Tổ chức bộ máy của ngân hàng không ngừng thay đổi trước thay đổi của môi trường 
kinh doanh. Sự phát triển của các tổ chức tài chính mới, sự ra đời của các sản phẩm 
ngân hàng, sự thay đổi vê nhu cầu tiết kiệm hay vay mượn, sự phát triển của công 
Khối quan 
hệ khách 
Khối quản 
lý rủi ro 
Khối tác 
nghiệp 
Khối trực 
thuộc 
Các phòng 
QHKH 
Phòng 
QHKH 1 
Phòng 
QHKH 2 
Phòng 
QHKH 3 
Phòng 
QLRR 
Phòng 
quản trị tín 
Khối quản 
lý nội bộ 
Các phòng 
GD KH DN 
Phòng QL 
và DV kho 
Phòng 
TTQT 
Phòng GD 
KHCN 
Phòng 
TC-KT 
Phòng 
TC-HC 
Phòng KH-
Tổng hợp 
Phòng 
Điện toán 
Ban 
Giám đốc 
Đ. Giao dịch
 Bài 1: Tổng quan về ngân hàng và hoạt ngân hàng 
01_NEU_FIN504_Bai1_b3_v1.0013110211 19 
nghệ, quá trình đa dạng hoá, toàn cầu hoá tạo mối kiên kết mới... đều dẫn đến sự thay 
đổi bộ máy tổ chức của ngân hàng 
Tổ chức bộ máy nhằm mục tiêu chủ yếu là tăng hiệu suất công việc, dẫn đến tăng thu 
nhập, giảm rủi ro cho ngân hàng. Mỗi chi nhánh, công ty con, phòng ban tổ chức ra 
đều làm gia tăng chi phí nhân công, chi phí quản lí, chi phí đầu tư... Hơn nữa, nếu 
phân định nhiệm vụ không rõ ràng có thể dẫn đến trùng lặp giữa các bộ phận. Do vậy 
tổ chức bộ máy phải nghiên cứu tính sinh lời của các phòng, các chi nhánh. Tổ chức 
bộ máy vừa phải đảm bảo quyền và hiệu quả hoạt động của Hội đồng quản trị, Ban 
giám đốc vừa tăng tính độc lập tương đối của các bộ phận trong ngân hàng. 
1.8. Các nhân tố tác động tới hoạt động của ngân hàng 
1.8.1. Chính phủ thực hiện chính sách giảm bao cấp và can thiệp trực tiếp 
Trong thời kì bao cấp, Nhà nước bao cấp cho các ngân hàng và doanh nghiệp. Đồng 
thời với chính sách này là qui định của Nhà nước về đối tượng cho vay, lãi suất, ngành 
nghề... Mỗi doanh nghiệp chỉ được quan hệ với một ngân hàng trên địa bàn, lãi nộp 
ngân sách, lỗ ngân sách bù... 
Cạnh tranh và quá trình mở rộng dịch vụ ngân hàng được thúc đẩy bởi sự giảm bớt 
bao cấp và can thiệp trực tiếp của Chính phủ, tạo quyền chủ động cho các ngân hàng. 
Các hoạt động của ngân hàng chính sách được tách biệt với các hoạt động của ngân 
hàng thương mại. Từng bước, nợ xấu được tính đủ và bù đắp bằng quĩ dự phòng tổn 
thất. Các ngân hàng được chủ động cung cấp nhiều dịch vụ ngân hàng, quyết định đối 
tượng cho vay, lãi suất và các điều kiện cho vay, mức phí... các doanh nghiệp được 
quyền giao dịch với nhiều ngân hàng. 
Giảm và xoá bao cấp của Nhà nước đối với ngân hàng đã tạo sân chơi bình đẳng cho 
mọi loại hình ngân hàng, buộc các ngân hàng phải cạnh tranh, thực sự kinh doanh trên 
cơ sở phục vụ khách hàng. 
1.8.2. Sự phát triển dịch vụ tài chính trên thế giới và trong khu vực 
Sự phát triển của các tổ chức tài chính, sự thay đổi 
công nghệ, đòi hỏi cao hơn của khách hàng đã dẫn đến 
yêu cầu gia tăng số lượng và chất lượng dịch vụ ngân 
hàng. Sự hiện diện của các chi nhánh ngân hàng nước 
ngoài tại Việt Nam, sự phát triển các tổ chức tài chính 
phi ngân hàng cho thấy dịch vụ tài chính phát triển rất 
nhanh, đa dạng, rộng khắp. Hàng nghìn sản phẩm dịch 
vụ tài chính được cung cấp trên thị trường tài chính quốc tế đã tạo áp lực lên các ngân 
hàng thương mại nội địa. 
Các ngân hàng đang mở rộng dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Quá trình này làm 
tăng những nguồn thu mới đồng thời cũng gia tăng chi phí của ngân hàng và dẫn đến 
rủi ro phá sản cao hơn. Các ngân hàng Việt Nam từ đầu năm 90 mới chỉ cung cấp chủ 
yếu dịch vụ tiền gửi, cho vay các doanh nghiệp, hộ sản xuất và dịch vụ thanh toán đến 
năm 2000 đã cung cấp các dịch vụ chiết khấu, cho thuê, bảo lãnh, dịch vụ chứng khoán, 
cho vay người tiêu dùng, thanh toán thẻ, thanh toán qua mạng... Ngân hàng phát triển 
 Bài 1: Tổng quan về ngân hàng và hoạt ngân hàng 
20 01_NEU_FIN504_Bai1_b3_v1.0013110211 
thêm các dịch vụ ngân hàng bán buôn, cung cấp tài chính cho các tổ chức tài chính, 
các công ty mẹ trong các tập đoàn kinh tế... Ngân hàng cũng phát triển thêm các dịch 
vụ ngân hàng bán lẻ, cung cấp dịch vụ ngân hàng 24 giờ, đa tiện ích cho hàng triệu 
khách hàng... Đa dạng hoá các dịch vụ đòi hỏi ngân hàng phải năng cao trình độ của 
nhân viên ngân hàng, thiết lập các phòng chức năng thích ứng cho dịch vụ mới, tổ 
chức lại bộ máy điều hành... 
Xu hướng đa dạng hoá gắn liền với mở rộng phạm vi hoạt động 
Đa dạng hoá và mở rộng thị trường là điều kiện để hạn chế rủi ro và cung cấp cho 
khách hàng về hình ảnh một ngân hàng toàn diện. Mở rộng phạm vi hoạt động có 
nghĩa là không ngừng gia tăng khách hàng, thị phần, lĩnh vực hoạt động, vùng lãnh 
thổ. Ngân hàng phải là bách hoá tài chính. Đấy là cách thức để gia tăng doanh lợi và 
đạt hiệu quả cao. 
Thời kì đổi mới cơ chế, dưới ảnh hưởng của công nghệ và toàn cầu hoá, ngân hàng 
cần phải đa dạng các loại dịch vụ và mở rộng hoạt động bằng cách vươn tới các thị 
trường mới trong và ngoài nước. Các ngân hàng chuyên doanh của Việt am từng bước 
chuyển sang mô hình đa năng, cung cấp tất cả các dịch vụ của ngân hàng. Ví dụ các 
ngân hàng đều nỗ lực mở rộng nghiệp vụ thanh toán quốc tế (trước đây là dịch vụ 
riêng có của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam), mở rộng cho vay xây dựng cơ bản, 
cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn... Nhiều ngân hàng thành lập các 
công ty con như công ty bảo hiểm, chứng khoán, cho thuê... Nhiều ngân hàng liên 
doanh với các ngân hàng nước ngoài hoặc phát triển các chi nhánh tại các vùng của 
đất nước và quốc tế, hoặc phát triển mạng lưới ngân hàng đại lí. Nhiều ngân hàng mua 
lại ngân hàng khác. Xu hướng này đang biến ngân hàng Việt Nam trở thành tổ chức 
tài chính đa năng với cấu trúc tập đoàn. 
1.8.3. Sự gia tăng cạnh tranh 
Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở lên quyết liệt khi 
ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục dịch vụ. Các ngân hàng, các 
quĩ đầu tư, các quĩ hưu trí, các hiệp hội tiết kiệm... đang cạnh tranh để tìm kiếm các 
nguồn tiết kiệm và thị trường dịch vụ áp lực cạnh tranh đóng vai trò như một lực đẩy 
tạo ra sự phát triển dịch vụ cho tương lai. 
Cạnh tranh thức đẩy các ngân hàng Việt Nam cung cấp 
các tiện ích ngày càng tốt hơn cho khách hàng. Công 
chúng có một mức thu nhập khá hơn từ khoản tiết 
kiệm của mình. Nhiều loại tài khoản tiền gửi mới được 
phát triển. Lãi suất cho vay và điều kiện cho vay cũng 
thông thương hơn. Đầu năm 90, thời gian xét duyệt 
cho vay có khi phải vài tuần, cho đến vài tháng, thời gian chuyển tiền cũng hàng chục 
ngày. Hiện nay, chỉ sau khoảng 5-10 ngày, ngân hàng phải trả lời có cho vay hay 
không, chuyển tiền chỉ mất vài giờ hoặc vài phút. Cạnh tranh buộc các ngân hàng 
trong nước phải áp dụng công nghệ mới, thay đổi tư duy về tuyển dụng nhân sự, mức 
lương, quảng cáo và đặc biệt chú ý tới chất lượng các dịch vụ. 
 Bài 1: Tổng quan về ngân hàng và hoạt ngân hàng 
01_NEU_FIN504_Bai1_b3_v1.0013110211 21 
1.8.4. Áp lực gia tăng vốn chủ sở hữu 
Vốn chủ sở hữu là điều kiện ban đầu để thành lập ngân hàng, là nguồn tài trợ chính 
cho xây dựng trụ sở ngân hàng, mua sắm thiết bị. Vốn chủ sở hữu có chức năng quan 
trọng là chống đỡ rủi ro cho những người gửi tiền. Do vậy, mức tối thiểu luôn được 
các cơ quan chức năng kiểm soát ngân hàng quan tâm. Rất nhiều các chỉ tiêu hoạt 
động của ngân hàng bị ràng buộc với vốn chủ sở hữu như mức huy động tối đa, mức 
cho vay tối đa cho một khách hàng, số lượng chi nhánh... 
Rất nhiều ngân hàng ở Việt Nam được thành lập vào cuối những năm 80 và đầu 
những năm 90. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ chế tại Việt Nam. Do thị trường tài 
chính chưa phát triển, dân chúng chưa quen với cổ phần, và hơn nữa thu nhập của đại 
bộ phận dân cư còn thấp, thu ngân sách nhỏ nên phần lớn các ngân hàng được thành 
lập với mức vốn chủ sở hữu thấp (các ngân hàng thương mại quốc doanh được cấp 
200 tỷ VNĐ, các ngân hàng cổ phần từ 5 - 50 tỷ). Vốn thấp đang hạn chế các ngân 
hàng Việt Nam tiếp cận với các khách hàng có nhu cầu vay lớn, gây gánh nặng tài 
chính cho quốc gia khi các ngân hàng bị phá sản, hạn chế các ngân hàng mở rộng qui 
mô hoạt động, gia tăng số lượng và chất lượng dịch vụ. 
Nhu cầu mở rộng chi nhánh, thành lập các công ty con, tăng dư nợ cho khách hàng 
lớn đang buộc các ngân hàng phải tăng vốn chủ sở hữu. Theo Hiệp Định Basel, tỷ lệ 
vốn chủ sở hữu có điều chỉnh trên tài sản điều chỉnh qua hệ số rủi ro tối thiểu là 8%. Áp 
lực của thị trường tài chính quốc tế, áp lực của hạn chế rủi ro buộc nhiều ngân hàng Việt 
Nam phải tăng vốn chủ sở hữu thông qua quá trình tự tích luỹ, phát hành cổ phiếu mới, 
cổ phần hoá, sáp nhập, lành mạnh hoá tính hình tài chính và hạn chế tổn thất. 
1.8.5. Sự gia tăng rủi ro 
Rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường... là rủi ro nội tại của hoạt động 
ngân hàng. 
Trong nhiều năm, lãi suất của ngân hàng thương 
mại do Ngân hàng Nhà nước qui định và bị "đông" 
lại, ít thay đổi (có khi 2-3 năm mới thay đổi một 
lần). Do vậy các tài sản và nguồn của ngân hàng 
đều ít nhạy cảm lãi suất. Sau 1996, lãi suất trở nên 
linh hoạt hơn, khách hàng và ngân hàng làm quen 
với tình trạng thay đổi lãi suất nhiều lần trong năm, 
thậm chí trong tháng. Cạnh tranh đã tạo nên phân 
biệt lãi suất giữa các ngân hàng. Mật độ ngân hàng, sự tiện lợi khi giao dịch với ngân 
hàng, và qui mô thu nhập gia tăng đã khiến cho việc di chuyển của khách hàng ngày 
càng tăng, làm tăng tình nhạy cảm của tài sản và nguồn đối với lãi suất. 
Việc tạo ra các sản phẩm ngân hàng như thẻ, hợp đồng phái sinh... trong khi kinh 
nghiệm của cán bộ ngân hàng còn ít, việc mở rộng tín dụng tới các ngành, vùng mới, 
tham gia vào thị trường tài chính quốc tế... đều làm gia tăng rủi ro cho các ngân hàng. 
Hàng loạt các HTX tín dụng bị đỏ bể, nhiều ngân hàng thương mại cổ phần phải bị 
kiểm soát đặc biệt, hàng tỷ đồng thất thoát hoặc quá hạn, khó đòi, trộm cắp, lừa đảo 
trong ngân hàng ngày càng tăng... 
 Bài 1: Tổng quan về ngân hàng và hoạt ngân hàng 
22 01_NEU_FIN504_Bai1_b3_v1.0013110211 
Áp lực gia tăng rủi ro buộc các ngân hàng phải xây dựng và hoàn thiện chiến lược 
quản trị rủi ro. Các chuẩn mực quốc tế về quản trị rủi ro dần được áp dụng nhằm 
chuẩn hóa hoạt động và đội ngũ cán bộ ngân hàng. 
1.8.6. Cách mạng công nghệ 
Công nghệ hiện đại làm thay đổi cơ bản hoạt động ngân hàng. Lao động thủ công 
trong những năm 80 tại các ngân hàng Việt Nam đang được thay thế dần bằng hệ 
thống máy tính. Các hoạt động huy động, chi trả tiền gửi cho khách đang được thực 
hiện trên máy. Ngân hàng đang mở rộng dịch vụ ngân hàng qua mạng, ngân hàng qua 
điện thoại. An toàn và sang trọng đang là đòi hỏi trong việc xây dựng mới các trụ sở 
ngân hàng. Để mở rộng thanh toán, các ngân hàng lắp đạt máy rút tiền tự động tại các 
siêu thị, công sở. Kinh doanh ngoại tệ trên thị trường hối đoái quốc tế đòi hỏi ngân 
hàng phải nối mạng với các trung tâm tiền tệ quốc tế. 
Công nghệ làm gia tăng tính tiện ích, đa tiện ích trong dịch vụ ngân hàng, phát triển 
dịch vụ ngân hàng mới, thu hút hàng triệu khách hàng trên toàn cầu. Công nghệ hiện 
đại cho phép ngân hàng vươn xa hơn, liên kết với nhau để cùng sử dụng. Điều này tạo 
cơ hội cho các ngân hàng hợp tác, cạnh tranh, sáp nhập, chi phối lẫn nhau nhiều hơn. 
Việc giảm tương đối nhân công và gia tăng chi phí cố định là xu hướng trong hoạt 
động của ngân hàng dưới ảnh hưởng của công nghệ thông tin. 
 Bài 1: Tổng quan về ngân hàng và hoạt ngân hàng 
01_NEU_FIN504_Bai1_b3_v1.0013110211 23 
Tóm lược cuối bài 
Ngân hàng, trong đó ngân hàng thương mại chiếm số lượng động đảo nhất, là tổ chức cung cấp 
các dịch vụ tài chính. Trong bài này, chúng ta đã nghiên cứu các chức năng cơ bản và các dịch 
truyền thống cũng như hiện đại của hệ thống ngân hàng, cấu trúc tổ chức, mô hình hoạt động của 
ngân hàng hiện đại. Bên cạnh nghiên cứu các nguyên lý chung, chúng ta cũng xem xét một số 
vấn đề của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. 

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_quan_tri_ngan_hang_thuong_mai_bai_1_tong_quan_ve_n.pdf