Bài giảng Quản lý tài chính công - Bài 2: Lý thuyết về thuế

Nội dung

 Những vấn đề chung về thuế;

 Phân loại thuế;

 Hệ thống thuế và tính chất của một hệ thống thuế tối ưu;

 Phân tích tác động của thuế.

Mục tiêu

Mục tiêu của bài nhằm cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về thuế. Các kiến

thức gồm khái niệm và đặc điểm của thuế, cơ sở thuế, thuế suất và cấu trúc thuế suất, phân

loại thuế, phân tích được tác động của thuế trên thị trường cạnh tranh và thị trường độc

quyền Từ đó có thể vận dụng để đánh giá chính sách thuế

pdf 14 trang phuongnguyen 360
Bạn đang xem tài liệu "Bài giảng Quản lý tài chính công - Bài 2: Lý thuyết về thuế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Quản lý tài chính công - Bài 2: Lý thuyết về thuế

Bài giảng Quản lý tài chính công - Bài 2: Lý thuyết về thuế
 Bài 2: Lý thuyết về thuế 
18 TXNHLT06_Bai 2_v1.0014108207 
BÀI 2 LÝ THUYẾT VỀ THUẾ 
Hướng dẫn học 
Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau: 
 Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia 
thảo luận trên diễn đàn. 
 Đọc tài liệu: 
1. Kinh tế học công cộng, NXBKHKT, 1995 (tác giả Joseph E.Stiglitz). 
2. Giáo trình Quản lý tài chính công, NXB tài chính – Hà nội 2005. 
3. Giáo trình Quản lý thuế, Nguyễn Thị Bất, NXB Thống kê 2002. 
 Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc qua email. 
 Tham khảo các thông tin từ trang Web môn học. 
Nội dung 
 Những vấn đề chung về thuế; 
 Phân loại thuế; 
 Hệ thống thuế và tính chất của một hệ thống thuế tối ưu; 
 Phân tích tác động của thuế. 
Mục tiêu 
Mục tiêu của bài nhằm cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về thuế. Các kiến 
thức gồm khái niệm và đặc điểm của thuế, cơ sở thuế, thuế suất và cấu trúc thuế suất, phân 
loại thuế, phân tích được tác động của thuế trên thị trường cạnh tranh và thị trường độc 
quyền Từ đó có thể vận dụng để đánh giá chính sách thuế. 
 Bài 2: Lý thuyết về thuế 
TXNHLT06_Bai 2_v1.0014108207 19 
Tình huống dẫn nhập 
Nguyên nhân nào gây thất thu cho ngành thuế? 
Trong gần 20 năm đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam, Coca–Cola 
liên tục báo lỗ, lỗ lũy kế tính đến 30/9/2011 của công ty này đã 
lên tới 3.768 tỷ đồng, vượt cả số vốn đầu tư ban đầu là 2.950 tỷ 
đồng. Do lỗ liên tục như vậy nên Coca–Cola Việt Nam không 
phải đóng thuế thu nhập doanh nghiệp, trong khi doanh thu liên 
tục tăng từ 20–30%/năm. Điều đáng ngạc nhiên hơn là tuy lỗ 
lớn như vậy nhưng doanh nghiệp này đã có kế hoạch đầu tư thêm 300 triệu USD tại Việt Nam. 
Ngành thuế Việt Nam trong nỗ lực chống chuyển giá đã buộc các doanh nghiệp giảm lỗ và truy 
thu thuế một khoản tiền khá lớn. Chỉ tính riêng TP. Hồ Chí Minh, trong năm 2012, khi thanh tra 
312 doanh nghiệp kê khai lỗ liên tục, trong đó có doanh nghiệp trong diện nghi vấn chuyển giá 
đã giảm lỗ 2.688 tỷ đồng, giảm khấu trừ 27,83 tỷ đồng, truy thu 187,79 tỷ đồng, truy hoàn 2,64 
tỷ đồng và phạt gần 85 tỷ đồng, số thuế truy nộp ngân sách là 275,43 tỷ đồng. Ở quy mô toàn 
quốc, trong năm 2011, sau khi thanh tra, kiểm tra 921 doanh nghiệp FDI lỗ, ngành thuế đã xử lý 
giảm lỗ 6.617 tỷ đồng, truy thu thuế và phạt 1.669 tỷ đồng. 
1. Tình trạng thất thu về thuế ở Việt Nam xuất phát từ đâu? 
2. Giải pháp hạn chế việc thất thu này? 
 Bài 2: Lý thuyết về thuế 
20 TXNHLT06_Bai 2_v1.0014108207 
2.1. Những vấn đề chung về thuế 
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm 
2.1.1.1. Khái niệm 
Hầu hết các nhà kinh tế đều thống nhất rằng: thuế là một khoản đóng góp bắt buộc đối 
với các thể nhân và pháp nhân, được nhà nước quy định thông qua hệ thống pháp luật. 
Sự ra đời của thuế gắn liền với sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng và sự 
xuất hiện của nhà nước. 
Thuế đã có quá trình phát triển lâu đời. Từ thời nhà nước chiếm hữu nô lệ đã xuất hiện 
các khoản thu (đảm phụ) bằng hiện vật, các khoản này cộng với các nguồn thu từ việc 
cưỡng bức lao động, bóc lột, nô dịch và chinh phục các dân tộc khác đã tạo ra mâu 
thuẫn xã hội và chính sự đấu tranh chống lại mâu thuẫn đó làm cho xã hội ngày càng 
phát triển. Cùng với sự phát triển của các quan hệ hàng hóa – tiền tệ, thuế cũng có 
những phát triển đáng kể so với ngày đầu hình thành: từ chỗ mang hình thức hiện vật, 
thuế đã dần dần chuyển sang hình thức tiền tệ. 
Thuế luôn gắn liền với sự tồn tại và phát triển của nhà nước, song quan niệm về thuế 
và việc sử dụng công cụ thuế mỗi thời lại khác. 
 Theo Joseph E. Stiglitz (1 trong những nhà kinh tế xuất 
sắc nhất thế giới theo đánh giá của rePEc) trong cuốn 
“Kinh tế cộng đồng” cho rằng: “Cá nhân cung cấp trực 
tiếp các dịch vụ cho chủ thái ấp đây là thuế nhưng chưa 
được tiền lệ hóa”. Theo Joseph thì thuế được hình thành 
từ rất lâu đời, bằng hình thức cung cấp dịch vụ cho người 
cai quản, đây là một trong những hình thức đơn giản, đầu 
tiên của thuế và sau này được tiền lệ hóa trở thành những 
nghĩa vụ nộp thuế bằng nhiều hình thức, nhưng cao nhất 
là bằng tiền. 
 Bàn về mối liên hệ giữa thuế và nhà nước Mác đã viết: “Thuế là có sở kinh tế của 
bộ máy nhà nước là thủ đoạn đơn giản để kho bạc thu được tiền hay tài sản của 
dân dùng vào việc chi tiêu của nhà nước”. Ang–ghen cũng đã viết: “để duy trì 
quyền lực công cộng, cần có sự đóng góp của nhân dân cho nhà nước, đó là thuế 
má”. Do lúc này nhà nước chỉ thu thuế để phục vụ nhu cầu của nhà nước, và là 
phương pháp hữu hiệu nhất để tác động tới đời sống kinh tế xã hội mà chưa có sự 
quan tâm tới việc thực hiện phụ vụ đời sống nhân dân. Do đó, cả Mác và Ang–
ghen đều chỉ đề cập tới vai trò đóng thuế của nhân dân như một sự bóc lột và coi 
đó là “thủ đoạn đơn giản” của nhà nước. 
 Theo G. Jege trong cuốn “Tài chính công” cho rằng: “Thuế là 1 khoản trích nộp 
bằng tiền, có tính chất xác định, không hoàn trả trực tiếp cho công dân đóng góp 
cho nhà nước trông qua con đường quyền lực nhằm bù đắp những chi phí của nhà 
nước”. Đây là khái niệm cổ nhất và nổi tiếng nhất về thuế. Nhưng thuế không phân 
định thuế được bù đắp vào công việc gì và trong nhiều trường hợp, thuế không chỉ 
để bù đắp chi tiêu mà còn dùng để phát triển kinh tế, xã hội. Do đó sau này quan 
niệm này được thay đổi như sau: “Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền, có tính 
 Bài 2: Lý thuyết về thuế 
TXNHLT06_Bai 2_v1.0014108207 21 
chất xác định, không hoàn trả trực tiếp do các công dân đóng góp cho nhà nước 
thông qua con đường quyền lực nhằm bù đắp những chi tiêu của nhà nước trong 
việc thực hiện các chức năng kinh tế – xã hội của nhà nước”. 
 Trên góc độ phân phối thu nhập, người ta đưa ra quan niệm thuế như sau: “Thuế là 
hình thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân 
nhằm hình thành lên quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước (Quỹ ngân sách 
nhà nước) để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của 
nhà nước”. 
 Trên góc độ người nộp thuế thì thuế được quan niệm là: “Thuế là khoản đóng góp 
bắt buộc cho nhà nước theo luật định để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu cho việc thực 
hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Người đóng thuế được hưởng hợp 
pháp phần thu nhập còn lại”. 
 Trên góc độ kinh tế học: “Thuế là biện pháp đặc biệt theo đó, nhà nước sử dụng 
quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư sang khu vực 
công nhằm thực hiện các chức năng kinh tế xã hội của nhà nước”. 
 Ở khía cạnh nghiên cứu thuế với tư cách một nội dung điều chỉnh của luật pháp, 
các chuyên gia về luật thuế đã nhận định: “Thuế là một trật tự đã được thiết lập 
hòa bình giữa chính phủ với cộng đồng trong sự tôn trọng thực hiện nghĩa vụ thu, 
nộp vào ngân sách. Thuế không có bất cứ sự phân biệt đối xử nào giữa các bang 
hay vùng lãnh thổ”. 
Ngoài ra ở Việt Nam có nhiều quan niệm khác nhau về thuế, tùy thuộc vào các lĩnh 
vực, góc độ nghiên cứu khác nhau: 
 Theo các tác giả Giáo trình Luật thuế, Đại học Luật Hà Nội thì “thuế là khoản thu 
nộp mang tính bắt buộc mà các tổ chức và cá nhân phải nộp cho nhà nước khi có 
đủ các điều kiện nhất định”. 
 Giáo trình Quản lý Tài chính công của học viện tài chính quan 
niệm rằng “thuế là một hình thức động viên bắt buộc của nhà 
nước theo luật định, thuộc phạm trù phân phối, nhằm tập trung 
một bộ phận thu nhập của các thể nhân và pháp nhân vào ngân 
sách nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của nhà nước 
và phục vụ lợi ích công cộng”. 
Tuy nhiên có thể thống nhất một khái niệm chung về thuế như sau: 
Về phương diện pháp luật, hệ thống thuế nhà nước là khoản đóng 
góp mang tính bắt buộc theo quy định của pháp luật nhằm hình 
thành ngân sách nhà nước. 
Về phương diện kinh tế, hệ thống thuế nhà nước là khoản hình thành trong quá trình 
phân phối và phân phối lại tài sản xã hội, thu nhập quốc dân. 
2.1.1.2. Đặc điểm 
 Mang tính bắt buộc và có tính pháp lý cao 
Vì không ai tự nguyện từ bỏ quyền lợi của mình để nộp thuế cho nhà nước nữa, để 
nhà nước tồn tại nguồn thu từ thuế phải thường xuyên và ổn định. Nếu tự nguyện 
 Bài 2: Lý thuyết về thuế 
22 TXNHLT06_Bai 2_v1.0014108207 
nộp thì không thể thường xuyên và ổn định được. Tính bắt buộc được thể hiện 
dưới 2 khía cạnh sau: 
o Đối với các cơ quan thu thuế: Thu thuế là nghĩa vụ bắt buộc đối với cán bộ, cơ 
quan thu thuế. Cán bộ cơ quan thu thuế không được quyền lựa chọn đối tượng 
nộp thuế, đối tượng chịu thuế, căn cứ tính thuế Khoản 1 Điều 8 Luật Quản lí 
Thuế quy định: Trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế là “Tổ chức thực hiện 
thu thuế theo quy định của pháp luật, lấy pháp luật làm căn cứ duy nhất để 
thực hiện”. 
o Đối với người nộp thuế: Đây là nghĩa vụ chuyển giao tài sản của họ cho nhà 
nước khi có đủ điều kiện do pháp luật thuế quy định mà không phải quan hệ 
thanh toán trong hợp đồng hay ngoài hợp đồng. Dù được thực hiện dưới hình 
thức nào, thuế vẫn thể hiện tính chất bắt buộc, đối tượng nộp thuế không có 
quyền trốn thuế hoặc mong muốn tự mình ấn định hay thỏa thuận mức đóng 
góp của mình mà chỉ có quyền chấp thuận. Những đối tượng nộp thuế vi phạm 
luật sẽ bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hoặc cưỡng chế thi 
hành theo quy định của pháp luật để buộc họ phải làm tròn nghĩa vụ nộp thuế. 
Đây là điểm khác biệt giữa thuế với các khoản đóng góp mang tính chất tự 
nguyện. 
Thuế do Quốc hội lập ra dưới hình thức là một đạo luật 
– là hình thức văn bản có tính pháp lý cao nhất do cơ 
quan quyền lực cao nhất, cơ quan lập pháp đặt ra. Đây 
là một điểm giúp phân biệt thu thuế và các khoản phí, lệ 
phí. Tuy cũng là những khoản thu có tính chất bắt buộc 
nhưng phí và lệ phí được thực hiện dựa theo các văn 
bản dưới luật. Có thể thấy, thuế và quyền lực nhà nước 
là hai phạm trù không thể tách rời. Nhà nước là chủ thể 
duy nhất đặt ra các khoản thuế và ngược lại thuế là 
phương tiện vật chất chủ yếu để duy trì quyền lực nhà 
nước. Bằng quyền lực chính trị, nhà nước tạo ra cho thuế tính cố định, sự tuân thủ 
của đối tượng nộp thuế. Vì vậy, chỉ gắn với yếu tố quyền lực nhà nước, thuế mới 
đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ tạo nguồn thu nhập tài chính cho nhà nước. 
Theo quy định của pháp luật, thuế được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng 
chế: nhà nước có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính hoặc cưỡng chế 
hình sự (quy định tại Điều 161 BLHS 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009). 
Qua đó nhà nước đã gián tiếp đảm bảo tính ổn định trong việc xác định nguồn thu 
nhập tài chính của nhà nước và đảm bảo tính ổn định của thuế. 
 Không được hoàn trả trực tiếp: điều này được hiểu là người đóng nhiều thuế 
không được đòi hỏi quyền lợi cao hơn so với người đóng ít thuế hơn (khác với phí 
và lệ phí, càng cao thì quyền lợi được hưởng càng cao). 
Khác với khoản vay, phí và lệ phí, thuế không hoàn trả trực tiếp cho người nộp 
thuế (tuy nhiên, một phần thuế được hoàn trả gián tiếp cho người nộp thuế thông 
qua các khoản phúc lợi xã hội, phúc lợi công cộng). Sự không hoàn trả trực tiếp 
được thể hiện ở cả trước và sau khi thu thuế. Trước khi thu thuế, nhà nước không 
 Bài 2: Lý thuyết về thuế 
TXNHLT06_Bai 2_v1.0014108207 23 
hề cung ứng trực tiếp một dịch vụ nào cho người nộp thuế. Sau khi thu thuế, nhà 
nước cũng không có sự bồi hoàn trực tiếp nào cho người nộp thuế. 
Bởi vì kết quả của việc sử dụng các khoản thu từ thuế chủ yếu là các sản phẩm 
công (những lợi ích không thể xác định chính xác được theo giá trị vật chất). Thuế 
được thu nhằm đáp ứng mọi nhu cầu chi tiêu của nhà nước, nên thuế không có đối 
khoản cụ thể. Điều này thể hiện rõ ở chỗ nguồn thu từ mỗi loại thuế không được 
quy định gắn với mục đích chi tiêu cụ thể nào cả mà đều được sử dụng để đáp ứng 
nhu cầu chi tiêu chung của nhà nước trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm 
vụ của nhà nước. Vì thế, khi xem xét khái niệm thuế cũng phải hiểu thuế trên hai 
góc độ: thuế vừa công cụ huy động nguồn thu để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà 
nước và thuế vừa là công cụ giúp nhà nước thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội 
hay công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế. 
2.1.2. Cơ sở thuế 
Là đối tượng tác động của một chính sách thuế. 
Tùy theo mục đích và tính chất của từng sắc thuế, cơ sở thuế có thể là các khoản thu 
nhập nhận được trong một thời gian nhất định của một số tổ chức kinh tế hoặc một cá 
nhân, tổng giá trị tài sản do tổ chức kinh tế hoặc cá nhân đó nắm giữ, tổng trị giá một 
lô hàng hóa hoặc một lượng giá trị nhất định của hàng hóa, dịch vụ. 
2.1.3. Thuế suất và cấu trúc thuế suất 
2.1.3.1. Thuế suất 
Là yếu tố quan trọng nhất của một loại thuế. Có thể nói, thuế suất là linh hồn của một 
sắc thuế. Nó phản ánh mức độ điều tiết trên một cơ sở thuế. Thuế suất cho biết mục 
đích, ý nghĩa tác động của loại thuế như thế nào. 
Thuế suất là mức thu ấn định trên cơ sở thuế bằng những phương pháp tính toán thích 
hợp. Từ đó hình thành các loại cấu trúc thuế suất sau: 
2.1.3.2. Cấu trúc thuế suất 
Theo cấu trúc, thuế suất gồm: thuế suất cố định, thuế suất tỷ lệ, thuế suất lũy tiến, thuế 
suất lũy thoái. 
 Thuế suất cố định (thuế tuyệt đối, thuế đơn vị) 
Được ấn định bằng số tuyệt đối trên cơ sở thuế (ấn định 1 số thu bằng tiền trên 1 
đơn vị tính thuế như trọng lượng, khối lượng, diện tích, đơn vị sản phẩm). 
Ví dụ: Thuế nhập khẩu ô tô cũ của Việt Nam hiện nay được đánh theo thuế suất 
cố định. Cụ thể như sau: 
1. Đối với xe ôtô chở người từ 09 chỗ ngồi trở xuống (kể cả lái xe) có dung tích xi 
lanh dưới 1.500cc: 
Mô tả mặt hàng 
Thuộc nhóm mã số 
trong Biểu thuế nhập 
khẩu ưu đãi 
Đơn vị tính Mức thuế (USD) 
– Dưới 1.000cc 8703 Chiếc 3.500,00 
– Từ 1.000cc đến dưới 1.500cc 8703 Chiếc 8.000,00 
 Bài 2: Lý thuyết về thuế 
24 TXNHLT06_Bai 2_v1.0014108207 
 2. Đối với xe ôtô từ 10 đến 15 chỗ ngồi (kể cả lái xe): 
Mô tả mặt hàng 
Thuộc nhóm mã số 
trong Biểu thuế 
nhập khẩu ưu đãi 
Đơn vị tính Mức thuế (USD) 
– Từ 2.000cc trở xuống 8702 Chiếc 9.500,00 
– Trên 2.000cc đến 3.000cc 8702 Chiếc 13.000,00 
– Trên 3.000cc 8702 Chiếc 17.000,00 
Ưu điểm: 
o Tránh gian lận về mặt thuế suất; 
o Khi áp dụng thuế suất tuyệt đối, thường áp dụng đối với hàng hóa cao cấp; 
o Trong trường hợp khó xác định mức thuế cần thu → áp dụng thuế tuyệt đối; 
o Khuyến khích tiêu dùng và sản xuất hàng hóa cao cấp với quy mô lớn hơn và 
chất lượng tốt hơn. 
 Thuế suất tỷ lệ: được ấn định bằng tỷ lệ % trên cơ sở thuế nhưng mức thuế suất 
không thay đổi khi cơ sở thuế thay đổi. 
Ví dụ: thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp, 
thuế tài nguyên, thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập cá nhân. 
Biểu thuế Tiêu thụ đặc biệt của các ngành dịch vụ được tính theo thuế suất tỷ lệ: 
II Dịc vụ 
1 Kinh doanh vũ trường 40 
2 Kinh doanh mát–xa, ka–ra–ô–kê 30 
3 Kinh doanh ca–si–nô, trò chơi điện tử có thưởng 30 
4 Kinh doanh đặt cược 30 
5 Kinh doanh gôn 20 
6 Kinh doanh xổ số 15 
Ưu điểm: 
o Đơn giản, dễ tính, dễ hiểu, dễ kiểm tra. 
o Tăng số thu cũng với tăng cơ sở thuế. 
 Thuế suất lũy tiến: 
Được ấn định bằng tỷ lệ % trên cơ sở thuế nhưng mức thuế suất tăng dần theo sự 
tăng lên của cơ sở thuế. 
Ví dụ: Biểu thuế thu nhập cá nhân của Việt Nam hiện nay. 
Bậc thuế Phần thu nhập tính thuế/năm (triệu đồng) 
Phần thu nhập tính 
thuế/tháng (triệu đồng) 
Thuế suất 
(%) 
1 Đến 60 Đến 5 5 
2 Trên 60 đến 120 Trên 5 đến 10 10 
3 Trên 120 đến 216 Trên 10 đến 18 15 
4 Trên 216 đến 384 Trên 18 đến 32 20 
5 Trên 384 đến 624 Trên 32 đến 52 25 
6 Trên 624 đến 960 Trên 52 đến 80 30 
7 Trên 960 Trên 80 35 
 Bài 2: Lý thuyết về thuế 
TXNHLT06_Bai 2_v1.0014108207 25 
Có 2 phương pháp áp dụng: 
o Thuế suất lũy tiến từng phần: là thuế suất lũy tiến nhưng điều kiện trên từng 
phần (bậc) tăng thêm của cơ sở thuế. Mức thuế suất tăng lên từng phần tương 
ứng với từng phần tăng lên của cơ sở thuế. 
o Thuế suất lũy tiến toàn phần: là thuế suất lũy tiến được áp dụng 1 mức thuế 
suất duy nhất trên toàn bộ cơ sở thuế. 
 Thuế suất lũy thoái: 
Được ấn định bằng tỷ lệ % trên cơ sở thuế nhưng mức thuế suất giảm dần theo sự 
tăng lên của cơ sở thuế . 
Ở một số nước trên thế giới, để khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát 
triển thành các công ty có quy mô lớn hơn, người ta đã áp dụng thuế suất lũy thoái 
đánh trên lợi nhuận của công ty. Ở Mỹ, theo luật thuế năm 1991, thuế An sinh xã 
hội ở Mỹ cũng là loại thuế áp dụng thuế suất lũy thoái. 
2.2. Phân loại thuế 
2.2.1. Thuế trực thu 
Là thuế điều tiết trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của người nộp thuế. 
Ví dụ: thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhà đất 
Thuế này có tính công bằng hơn thuế gián thu, vì phần đóng 
góp về thuế thường phù hợp đối với khả năng của từng đối 
tượng, có tính phân loại đối tượng nộp. 
Thuế trực thu có nhược điểm là hạn chế phần nào sự cố gắng 
tăng thu nhập của các đối tượng, vì thu nhập và lợi nhuận càng 
cao thì phải nộp thuế càng nhiều. Thuế trực thu do người có thu 
nhập phải trả một cách trực tiếp và có ý thức cho nhà nước, nên 
họ cảm nhận ngay được gánh nặng về thuế và có thể dẫn tới 
những phản ứng từ chối hoặc trốn thuế. 
Việc quản lí thu thuế này phức tạp và chi phí thường cao so với thuế gián thu. 
2.2.2. Thuế gián thu 
Là thuế không điều tiết trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của người nộp thuế mà điều 
tiết thông qua giá cả hàng hóa, dịch vụ. 
Ví dụ: thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 
Thuế này dễ thu hơn thuế trực thu vì tránh được quan hệ trực tiếp giữa người chịu 
thuế (người tiêu dùng) với cơ quan thu thuế. 
Thuế này dễ điều chỉnh hơn thuế trực thu vì những người chịu thuế thường không cảm 
nhận đầy đủ gánh nặng của loại thuế này. 
2.3. Hệ thống thuế và tính chất của một hệ thống thuế tối ưu 
2.3.1. Hệ thống thuế 
Hệ thống thuế ở Việt Nam là một hệ thống thuế gồm khoảng 8 loại thuế và khoảng 
hơn 100 loại phí và lệ phí được quản lý tập trung. 
 Bài 2: Lý thuyết về thuế 
26 TXNHLT06_Bai 2_v1.0014108207 
Mọi nguồn thu từ thuế và lệ phí ở Việt Nam đều do Quốc hội Việt Nam hoặc Ủy ban 
Thường vụ Quốc hội đặt ra bằng luật và pháp lệnh, và được thu bởi Tổng cục Thuế 
Việt Nam thông qua các cơ quan thu của nó là các cục thuế, chi cục thuế, phòng thuế, 
đội thuế, bởi Tổng cục Hải quan Việt Nam thông qua các cơ quan của nó là cục hải 
quan, chi cục hải quan, và các cán bộ chuyên môn được ủy quyền khác ở khắp các địa 
phương trong cả nước. Đối với các phí và lệ phí, các cơ quan thu thuộc các bộ, ngành, 
chính quyền địa phương có liên quan được ủy quyền thu. 
Về danh nghĩa, mức thuế (thuế suất) do Quốc hội Việt Nam quy định. Song trên thực 
tế, các mức thuế là do Chính phủ đề nghị với sự tư vấn của Bộ Tài chính mà cụ thể 
hơn nữa là Tổng cục Thuế. Đối với một số sắc thuế, như thuế xuất nhập khẩu, Quốc 
hội cho phép Chính phủ tự điều chỉnh khi cần thiết. Riêng các phí và lệ phí là nguồn 
thu của chính quyền địa phương, chính quyền địa phương có quyền quyết định mức. 
Hệ thống thuế ở Việt Nam không chia thành các sắc thuế quốc gia và các sắc thuế địa 
phương như ở nhiều nước. Tuy nhiên, Luật Ngân sách nhà nước số 01/2002/QH11 có 
quy định một số sắc thuế là nguồn thu mà chính quyền trung ương được hưởng 100%, 
một số sắc thuế và lệ phí mà chính quyền địa phương được hưởng 100%, và một số 
sắc thuế mà chính quyền các cấp chia nhau tùy theo tình hình từng địa phương. 
2.3.2. Tính chất của một hệ thống thuế tối ưu 
2.3.2.1. Tính hiệu quả kinh tế 
Hệ thống thuế phải đảm bảo hiệu quả can thiệp đối với nền kinh 
tế là lớn nhất. 
Giảm tối thiểu những tác động tiêu cực của thuế trong phân bổ 
nguồn lực kinh tế đã đạt được hiệu quả dưới tác động thị trường. 
Tăng cường vai trò của thuế đối với việc phân bố nguồn lực 
chưa đạt hiệu quả. 
Trên thực tế khi thu thuế bao giờ cũng phát sinh chi phí trực tiếp 
của cơ quan thuế (chi phí để thu thuế) và chi phí gián tiếp (chi 
phí tuân thủ của đối tượng nộp thuế). Thuế được thu nhiều nhất 
trên cơ sở chi phí hành chính thuế là thấp nhất. 
2.3.2.2. Tính đơn giản 
Hệ thống thuế đơn giản nhằm giảm bớt chi phí hành chính. Mặt khác hệ thống thuế có 
đơn giản, dễ hiểu thì việc quản lý, kiểm tra kiểm soát của nhà nước đối với người nộp 
thuế mới dễ dàng thuận lợi. 
Nếu một chính sách thuế phức tạp với quá nhiều mức thuế suất phân biệt và các điều 
khoản miễn giảm thuế sẽ gây ra tình trạng không có chuẩn mực rõ ràng trong cách 
hiểu và vận hành, làm cho người nộp thuế khó hiểu và do đó khó tự giác chấp hành, 
còn cơ quan thuế gặp khó khăn trong quản lí thu nộp. Vì lẽ đó phát sinh ra sự tùy tiện, 
tạo kẽ hở trốn thuế và tránh thuế, đồng thời tăng chi phí hành chính thuế. 
2.3.2.3. Tính linh hoạt 
Hệ thống thuế phải có tính linh hoạt, được thể hiện thông qua khả năng thích ứng một 
cách dễ dàng với những hoàn cảnh kinh tế thay đổi. Một số chính sách thuế có cơ chế 
 Bài 2: Lý thuyết về thuế 
TXNHLT06_Bai 2_v1.0014108207 27 
ổn định tự động rất hữu hiệu đó là thuế thu nhập. Mức thuế thu nhập sẽ tự thay đổi mà 
không cần phải thay đổi bản thân chính sách thuế. 
Tuy nhiên tính tự động điều chỉnh chưa thật sự tỏ ra hữu hiệu, nó chưa có những tác 
động đủ mạnh trước sự biến động của nền kinh tế, vì vậy bắt buộc các chính phủ phải 
chủ động điều chỉnh các loại thuế suất. 
Xây dựng hệ thống thuế tối ưu chính là kết hợp những tiêu chí đó một cách tối ưu nhất. 
2.3.2.4. Tính công bằng 
Tính công bằng là đòi hỏi khách quan trong tiến trình phát triển của lịch sử. Trong 
một xã hội dân chủ, tính công bằng cần phải thực hiện trước hết đối với việc phân chia 
gánh nặng thuế khóa. Các nhà kinh tế cho rằng tính công bằng của thuế phải dựa trên 
nguyên tắc công bằng ngang và nguyên tắc công bằng dọc. 
Hệ thống thuế được coi là công bằng theo chiều ngang: nếu các cá nhân có điều kiện 
về mọi mặt là như nhau thì được đối xử ngang nhau trong thực hiện nghĩa vụ thuế. 
Tuy nhiên thì tiêu chí này chỉ mang tính định hướng vì rất khó cụ thể hóa các tiêu thức 
xác định như thế nào là có điều kiện khác nhau. 
Hệ thống thuế có tính công bằng theo chiều dọc nếu người có khả năng nộp thuế nhiều 
hơn thì phải nộp thuế cao hơn người khác. Một hệ thống có tính công bằng dọc sẽ 
được hiểu là một hệ thống thuế lũy tiến so với thu nhập nhằm hạn chế bớt khoảng 
cách giàu nghèo và đảm bảo tính công bằng xã hội. 
2.4. Phân tích tác động của thuế 
2.4.1. Những tác động của thuế trong thị trường cạnh tranh 
Cho thị trường cạnh tranh hoàn hảo có: 
 Đường cầu: Q = a – bp 
 Đường cung: Q = c + dp 
Nhà nước đánh thuế là: T đồng/1 sản phẩm và thu thuế từ người sản xuất. 
Trước khi đánh thuế thị trường sẽ cân bằng tại điểm G0 (P0,Q0) 
P0: là giá mà người mua và người bán chấp nhận trao đổi; 
Q0: là sản lượng mà người mua và người bán chấp nhận trao đổi. 
 Bài 2: Lý thuyết về thuế 
28 TXNHLT06_Bai 2_v1.0014108207 
Khi nhà nước đánh thuế T đồng: 
Đường cung S dịch chuyển lên trên 1 đoạn = T tạo ra đường cung mới S’. 
Sau khi đánh thuế thị trường sẽ cân bằng tại điểm G1 (P1,Q1) 
P1: là giá mà người mua chấp nhận trả; 
Q1: là sản lượng mà người mua và người bán chấp nhận trao đổi. 
Giá mà người bán thực sự nhận được là: 
PB = P1 – T 
T = AB = P1PB 
Số thuế mà 1 người tiêu dùng phải chịu là: t1 = P1 – P0 
 Tổng số thuế người tiêu dùng chịu là: 
t1 Q1 
Số thuế mà 1 người sản xuất phải chịu là: t2 = P0 – PB 
Tổng số thuế người sản xuất chịu là: 
t2 Q1 
 Tổng số thuế nhà nước thu được: T Q1 
 Tổn thất phúc lợi của nhà nước: 
SAGoB = ½ G0I AB 
Tổn thất phúc lợi của người tiêu dùng: 
SAGoI = ½ G0I AI 
Tổn thất phúc lợi của người sản xuất: 
SBGoB = ½ G0I IB 
2.4.2. Những tác động của thuế trong thị trường độc quyền 
Tác động của việc đánh thuế phụ thuộc rất nhiều vào cơ cấu của thị trường. Trong 
phần trước chúng ta đã nghiên cứu tác động của thuế trong thị trường cạnh tranh hoàn 
hảo. Tuy nhiên, nếu thị trường là độc quyền thì tác động của thuế lại có nhiều điểm 
khác biệt. Trong phần này, chúng ta sẽ tiếp tục xem xét hai cơ cấu thị trường này. 
Hãng độc quyền tối đa hóa lợi nhuận bằng cách chọn sản xuất ở mức sản lượng mà tại 
đó, chi phí biên MC = doanh thu biên MR. Trong hình dưới, điểm cân bằng của thị 
trường độc quyền đạt tại điểm E, tại đó, hãng độc quyền định giá bằng P1 và sản xuất 
Q1. Nếu đây là thị trường cạnh tranh hoàn hảo thì thị trường sẽ cân bằng tại điểm F 
với giá cân bằng là P0 và sản lượng cung cấp là Q0. 
Nếu chính phủ quyết định đánh thuế T đồng vào từng đơn vị sản phẩm do hãng độc 
quyền sản xuất thì đường chi phí biên có tăng lên bằng MC + T. Nếu là thị trường 
cạnh tranh thì điểm cân bằng mới là F’. Nhưng nếu là thị trường độc quyền thì điểm 
cân bằng mới là E’ đạt tại mức P1’ và sản lượng Q1’. 
 Bài 2: Lý thuyết về thuế 
TXNHLT06_Bai 2_v1.0014108207 29 
So sánh ta có thể thấy sự chuyển thuế thuận chiều trong môi trường độc quyền ít hơn 
trong môi trường cạnh tranh. Tuy nhiên điều này chưa hẳn là điều tốt với người tiêu 
dùng vì ngay khi chưa có thuế, họ đã phải trả mức giá độc quyền cao hơn nhiều so với 
thị trường cạnh tranh. 
Mọi yếu tố khác không đổi, nếu đường chi phí biên càng dốc, tức là tốc độ tăng chi 
phí biên khi sản lượng tăng càng cao, thì khả năng chuyển thuế thuận chiều của hãng 
độc quyền càng nhỏ. 
 Bài 2: Lý thuyết về thuế 
30 TXNHLT06_Bai 2_v1.0014108207 
Tóm lược cuối bài 
 Khái niệm về thuế có thể được hiểu theo hai cách. Về phương diện pháp luật, hệ thống thuế 
nhà nước là khoản đóng góp mang tính bắt buộc theo quy định của pháp luật nhằm hình 
thành ngân sách nhà nước. Về phương diện kinh tế: hệ thống thuế nhà nước là khoản hình 
thành trong quá trình phân phối và phân phối lại tài sản xã hội, thu nhập quốc dân. 
 Đặc điểm của thuế: mang tính bắt buộc, có tính pháp lý cao và không được hoàn trả trực tiếp. 
 Cơ sở thuế: là đối tượng tác động của một chính sách thuế. Thuế suất: là yếu tố quan trọng 
nhất của một loại thuế. Có thể nói, thuế suất là linh hồn của một sắc thuế. Nó phản ánh mức 
độ điều tiết trên một cơ sở thuế. Thuế suất cho biết mục đích, ý nghĩa tác động của loại thuế 
như thế nào. 
 Thuế có hai loại cơ bản là: thuế trực thu và thuế gián thu. 
 Hệ thống thuế tối ưu là hệ thống thuế có các tính chất như: tính đơn giản, tính công bằng, 
tính linh hoạt và tính hiệu quả kinh tế. 
 Phân biệt được sự tác động của thuế trên thị trường cạnh tranh hoàn hảo và thị trường cạnh 
tranh không hoàn hảo. 
 Bài 2: Lý thuyết về thuế 
TXNHLT06_Bai 2_v1.0014108207 31 
Câu hỏi ôn tập 
1. Thuế là gì? 
2. Đặc điểm của thuế? 
3. Các cách phân loại thuế? 
4. Hệ thống quản lý thuế là gì? 
5. Các loại cấu trúc thuế suất? 
6. Các tính chất của một hệ thống thuế tối ưu? 
7. Tác động của thuế lên thị trường cạnh tranh hoàn hảo? 
8. Tác động của thuế lên thị trường độc quyền? 

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_quan_ly_tai_chinh_cong_bai_2_ly_thuyet_ve_thue.pdf