Bài giảng Phân tích và đầu tư chứng khoán - Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán

Nội dung

 Khái niệm, đặc điểm và các chủ thể tham

gia thị trường chứng khoán

 Cấu trúc của thị trường chứng khoán

 Thị trường tập trung - Sở giao dịch và

Thị trường phi tập trung - OTC

 Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp

 Chức năng và vai trò của thị trường

chứng khoán

 Các khía cạnh tiêu cực trên thị trường

chứng khoán

pdf 26 trang phuongnguyen 420
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Phân tích và đầu tư chứng khoán - Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Phân tích và đầu tư chứng khoán - Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán

Bài giảng Phân tích và đầu tư chứng khoán - Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
 Bai 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
FIN301_Bai 1_v1.0011101210 1 
BÀI 1: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 
Nội dung 
 Khái niệm, đặc điểm và các chủ thể tham 
gia thị trường chứng khoán 
 Cấu trúc của thị trường chứng khoán 
 Thị trường tập trung - Sở giao dịch và 
Thị trường phi tập trung - OTC 
 Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp 
 Chức năng và vai trò của thị trường 
chứng khoán 
 Các khía cạnh tiêu cực trên thị trường 
chứng khoán 
Thời lượng học Mục tiêu 
 8 tiết Hiểu được khái niệm, đặc điểm của thị 
trường chứng khoán và mỗi thị trường bộ 
phận cấu thành. 
 Nắm được các chức năng và vai trò của 
thị trường. 
 Nhận dạng được các khía cạnh tiêu cực, 
các hành vi vi phạm pháp luật thị trường 
chứng khoán. 
 Bai 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
2 FIN301_Bai 1_v1.0011101210 
TÌNH HUỐNG DẪN NHẬP 
Tình huống 
Ông Tiến là kế toán trưởng Công ty cổ phần than Bình Minh, 
ông vừa nhận được Báo cáo tài chính công ty do nhân viên gửi 
lên. Năm nay công ty ông làm ăn rất tốt do giá than tăng cao và 
công ty cũng ký được nhiều hợp đồng lớn xuất khẩu than lớn ra 
nước ngoài. Ông ước tính lợi nhuận năm nay tăng gấp 10 lần 
năm ngoái. Thông tin này mà được công bố ra ngoài thì cổ 
phiếu Bình Minh sẽ tăng giá vù vù. Vì thế ông quyết định chưa trình báo cáo tài chính cho Ban 
Giám đốc ngay mà lập tức gọi điện cho bà Hồng là vợ ông bảo mua ngay cổ phiếu Bình Minh 
(BMC). Nhận được điện từ chồng, bà Hồng vội vã ra công ty chứng khoán đặt ngay lệnh mua 
cổ phiếu BMC. Không những vậy bà Hồng còn thông tin cho một người bạn thân cùng mua cổ 
phiếu Bình Minh. 
Câu hỏi 
Theo anh (chị), hành vi của vợ chồng ông Tiến, bà Hồng là đúng hay sai? Giải thích? Nếu sai 
thì hành vi này bị xử lý như thế nào theo pháp luật TTCK Việt Nam? 
 Bai 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
FIN301_Bai 1_v1.0011101210 3 
1.1. Khái niệm, đặc điểm và các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán 
1.1.1. Khái niệm và các đặc điểm của thị trường chứng khoán 
 “Thị trường” là một khái niệm cơ bản của kinh tế học và đã 
được nhiều nhà kinh tế học định nghĩa. Nếu hiểu “thị 
trường” một cách đơn giản là nơi mua bán hàng hoá thì 
không sai, nhưng không đầy đủ và không thấy được những 
loại thị trường không có “chợ” mua bán tập trung. Hơn nữa, 
nếu hiểu như vậy thì thật khó giải thích về những thị trường 
“vô hình” với những loại hàng hoá “vô hình” đã và đang 
ngày càng phát triển như thị trường vốn, thị trường dịch vụ,... 
Xét về bản chất, thị trường là mối quan hệ kinh tế tổng hợp của 5 thành tố: hàng hoá, 
cung cầu, giá cả, phương thức giao dịch và thanh toán. Như vậy, nơi nào, lúc nào có 
đủ 5 thành tố thì nơi đó, khi đó diễn ra hoạt động của thị trường. 
Có nhiều loại thị trường khác nhau như: thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường sức 
lao động, thị trường vàng, thị trường ngoại tệ, thị trường chứng khoán... 
Thị trường chứng khoán (TTCK) là gì? 
 Định nghĩa 
 Thị trường chứng khoán là thị trường diễn ra các hoạt động phát hành, giao dịch mua bán 
chứng khoán. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp, khi người mua mua 
được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành chứng khoán, và ở thị trường thứ cấp 
khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành từ thị trường sơ cấp. 
Như vậy, TTCK là thị trường thể hiện quan hệ giữa cung - cầu vốn và là nơi chuyển 
đổi quyền sở hữu chứng khoán giữa các nhà đầu tư. Giá chứng khoán chứa đựng các 
thông tin về chi phí vốn, hay còn gọi là giá của vốn đầu tư. TTCK là một bộ phận của 
thị trường tài chính, là nơi diễn ra quá trình phát hành, mua bán các chứng khoán, đó 
là các chứng khoán nợ và chứng khoán vốn (còn gọi là công cụ sở hữu). TTCK là hình 
thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa. 
Thị trường tài chính bao gồm nhiều bộ phận khác nhau 
tùy theo tiêu thức phân loại. Theo thời gian chu chuyển 
vốn, thị trường tài chính bao gồm: 
 Thị trường tiền tệ: là thị trường diễn ra các giao dịch 
vốn ngắn hạn như thị trường ngoại hối, thị trường tín 
dụng ngắn hạn, thị trường chứng khoán ngắn hạn. 
 Thị trường vốn: là thị trường diễn ra các giao dịch vốn dài hạn như thị trường cho 
thuê tài chính, thị trường tín dụng trung và dài hạn, thị trường chứng khoán trung 
và dài hạn. 
Chứng khoán bao gồm nhiều loại khác nhau. Theo thời gian lưu hành, có chứng khoán 
ngắn hạn và chứng khoán dài hạn. Các chứng khoán ngắn hạn thường được mua bán 
trên thị trường tiền tệ. Các chứng khoán dài hạn như cổ phiếu, trái phiếu thường được 
phát hành, mua bán trên TTCK. Vì vậy trên thực tế, đôi khi người ta đồng nhất giữa 
TTCK với thị trường vốn. 
 Bai 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
4 FIN301_Bai 1_v1.0011101210 
Đặc điểm của TTCK 
 Thứ nhất, hàng hoá của TTCK là các loại chứng khoán: cổ phiếu, trái phiếu, 
chứng chỉ quỹ đầu tư, chứng khoán phái sinh. Chứng khoán có những đặc điểm 
khác biệt so với các hàng hóa thông thường. Chúng không có những tính năng, tác 
dụng riêng như các hàng hóa khác, nó là những công cụ chuyển tải giá trị. Vì vậy, 
trong phát hành cũng như trong đầu tư mua bán chứng khoán người ta không cần 
quan tâm đến hình thức của chúng. Điều quan trọng cần nghiên cứu, phân tích, đó 
là: chứng khoán đó thật hay giả, khả năng sinh lợi và rủi ro tiềm ẩn thế nào, khả 
năng thanh khoản ra sao. 
 Thứ hai, việc chuyển giao vốn từ người cung sang người cầu trên TTCK sơ cấp 
được thực hiện chủ yếu bởi cơ chế tài chính trực tiếp. 
Hình 1.1: Quá trình chu chuyển vốn trên thị trường tài chính 
Trên thị trường tài chính, các nguồn vốn có thể được 
chuyển từ người cung sang người cầu bằng một trong 
hai hình thức: gián tiếp hoặc trực tiếp. 
o Trong kênh tài chính gián tiếp, vốn được luân 
chuyển từ người cung vốn qua các trung gian tài 
chính (như ngân hàng thương mại, công ty tài 
chính) rồi mới chuyển tới người cầu vốn. Trung gian tài chính đứng giữa 
người cung và người cầu vốn, tiến hành tập trung các nguồn tài chính từ những 
người cung vốn và trả cho họ một khoản tiền lãi nhất định; sau đó sử dụng các 
nguồn lực tài chính huy động được để cho những người cầu vốn vay và thu từ 
họ một khoản tiền lãi nhất định. Trung gian tài chính được hưởng một khoản 
thu nhập từ phần chênh lệch giữa thu từ cung ứng nguồn lực tài chính và chi 
cho huy động các nguồn lực tài chính. 
o Trong kênh tài chính trực tiếp, vốn hay các nguồn tài chính được chuyển trực 
tiếp từ người cung vốn sang người cầu vốn. Trong quá trình vận động này, 
Tài chính gián tiếp 
Tài chính trực tiếp 
Người cung vốn 
1. Hộ gia đình và cá nhân 
2. Các tổ chức CTXH 
3. Các tổ chức kinh doanh 
4. Nhà nước 
5. Tổ chức, cá nhân nước ngoài
Người cầu vốn 
1. Các tổ chức kinh doanh 
2. Nhà nước 
3. Hộ gia đình và cá nhân 
4. Các tổ chức CTXH 
5. Tổ chức, cá nhân nước ngoài
Thị 
trường 
tài 
chính 
Người trung gian 
1. Ngân hàng 
2. Tổ chức KD tiền tệ 
3. Công ty môi giới CK 
4. Nhà môi giới độc lập 
5. Tổ chức, cá nhân nước 
Vốn 
Vốn
Vốn 
Vốn
Vốn
 Bai 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
FIN301_Bai 1_v1.0011101210 5 
nguồn tài chính không dừng lại ở bất kỳ một tổ chức tài chính trung gian nào. 
Người có nhu cầu sử dụng vốn phải trả chi phí sử dụng vốn cho người cung 
vốn. Tuy nhiên, trong hình thức tài trợ trực tiếp, nguồn vốn có thể chuyển tới 
người có nhu cầu theo 2 hình thức: tài trợ trực tiếp qua trung gian và tài trợ 
trực tiếp không qua trung gian. 
 Tài trợ trực tiếp qua trung gian: là một hình thức luân chuyển các nguồn tài 
chính, trong đó ngoài người cung vốn và người cầu vốn còn xuất hiện một 
trung gian đứng ra tổ chức, thu xếp việc thực hiện giao dịch tài chính giữa 
người cung và người cầu. Ở hình thức này, nguồn tài chính không dừng lại 
ở trung gian (như trong tài trợ gián tiếp) song người cầu vốn (tổ chức phát 
hành) phải trả một khoản phí nhất định cho người trung gian ngoài chi phí 
sử dụng vốn, ví dụ: hoa hồng đại lý, phí bảo lãnh phát hành chứng khoán. 
Đây là loại hình luân chuyển các nguồn tài chính phát sinh khá phổ biến 
trên thị trường. 
 Tài trợ trực tiếp không qua trung gian: là hình thức luân chuyển trực tiếp 
các nguồn tài chính giữa người cung vốn và người cầu vốn mà không cần 
qua bất kỳ một trung gian nào. Người cung vốn và người cầu vốn trực tiếp 
thỏa thuận các điều kiện giao dịch. Trong hình thức này, người cầu vốn chỉ 
phải trả chi phí sử dụng vốn cho người cung vốn để có quyền sử dụng vốn 
trong những khoảng thời gian nhất định. Hình thức này phát sinh phổ biến 
trong phát hành chứng khoán nội bộ, nhà đầu tư mua chứng khoán trực tiếp 
từ tổ chức phát hành. 
Thực tế phát triển TTCK cho thấy, hầu hết các hoạt động phát hành chứng khoán để 
huy động vốn của các tổ chức phát hành được thực hiện thông qua các hình thức tài 
trợ trực tiếp qua trung gian hoặc không qua trung gian. 
 Thứ ba, hoạt động mua bán trên TTCK chủ yếu được 
thực hiện qua người môi giới. 
TTCK được cấu thành bởi nhiều bộ phận thị trường, 
trong đó TTCK tập trung là bộ phận quan trọng. Do 
hàng hóa của thị trường này là các công cụ chuyển tải 
giá trị, nên bằng những giác quan thông thường nhà 
đầu tư khó có khả năng phân biệt được chứng khoán đó có đảm bảo yêu cầu về 
mặt pháp lý cũng như chất lượng của chúng. Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi chính 
đáng cho nhà đầu tư, đảm bảo TTCK hoạt động đúng pháp luật, công bằng, công 
khai và hiệu quả, luật pháp các nước thường quy định hoạt động mua bán chứng 
khoán trên các thị trường có tổ chức phải thông qua các trung gian, đó là những 
nhà môi giới chứng khoán đã được cấp phép là thành viên giao dịch của thị trường 
đó. Các nhà đầu tư muốn mua hoặc bán chứng khoán không thể đến thị trường 
đàm phán để mua bán trực tiếp, mà bắt buộc phải đặt lệnh mua bán qua các nhà 
môi giới chứng khoán. 
 Thứ tư, TTCK gần với thị trường cạnh tranh hoàn hảo. 
TTCK bao gồm nhiều bộ phận thị trường khác nhau, trong đó TTCK tập trung là 
bộ phận trung tâm. Ở thị trường này, mọi người đều được tự do mua và bán theo 
nguyên tắc hoạt động của thị trường, không có sự áp đặt giá trên TTCK. Giá 
chứng khoán được xác định dựa trên quan hệ cung cầu của thị trường và phản ánh 
các thông tin có liên quan đến chứng khoán. 
 Bai 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
6 FIN301_Bai 1_v1.0011101210 
 Thứ năm, TTCK về cơ bản là thị trường liên tục. Sau khi các chứng khoán được 
phát hành trên thị trường sơ cấp, nó có thể được mua đi bán lại nhiều lần trên thị 
trường thứ cấp. TTCK đảm bảo cho những người đầu tư có thể chuyển các chứng 
khoán của họ nắm giữ thành tiền bất cứ lúc nào họ muốn. 
Trên đây là một số đặc điểm cơ bản của TTCK. Những đặc điểm này là cơ sở để 
phân biệt sự khác nhau giữa TTCK với các thị trường khác; đồng thời đó cũng là 
những điểm nhấn tạo ra sự hấp dẫn của TTCK đối với các tổ chức phát hành, nhà 
đầu tư và kinh doanh chứng khoán. Đặc biệt đối với các tổ chức phát hành, TTCK 
là kênh huy động vốn trung và dài hạn rất thuận lợi vì với đặc điểm “thị trường 
chứng khoán là thị trường liên tục” đã tạo điều kiện cho các nguồn vốn ngắn hạn 
của nhà đầu tư trở thành nguồn vốn dài hạn của tổ chức phát hành. 
1.1.2. Các chủ thể tham gia TTCK 
Chủ thể tham gia TTCK thường bao gồm: tổ chức phát hành, nhà đầu tư, tổ chức kinh 
doanh chứng khoán, tổ chức quản lý TTCK và các tổ chức phụ trợ khác. 
 Tổ chức phát hành chứng khoán 
Tổ chức phát hành chứng khoán là các tổ chức cần vốn và thực hiện huy động vốn 
thông qua TTCK. Tổ chức phát hành là người cung cấp hàng hóa cho thị trường và 
có trách nhiệm công bố các thông tin về chứng khoán. Các tổ chức được phát hành 
chứng khoán gồm: 
o Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương: phát hành trái phiếu chính phủ 
và trái phiếu địa phương. 
o Doanh nghiệp (bao gồm cả các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực tài chính ngân hàng 
và phi tài chính): phát hành cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp. Theo luật lệ của 
hầu hết các quốc gia, cổ phiếu chỉ do một chủ thể duy nhất phát hành, đó là công 
ty cổ phần; còn trái phiếu có thể do nhiều loại hình doanh nghiệp phát hành như: 
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp nhà nước. 
o Công ty quản lý quỹ đầu tư: phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư. 
 Nhà đầu tư chứng khoán 
Nhà đầu tư chứng khoán là những người bỏ tiền đầu 
tư vào chứng khoán nhằm mục đích thu lợi nhuận. 
Có thể chia nhà đầu tư thành nhiều nhóm như: nhà 
đầu tư tổ chức, nhà đầu tư cá nhân, nhà đầu tư trong 
nước và nhà đầu tư nước ngoài. Tùy theo chính sách 
quản lý nguồn vốn đầu tư nước ngoài của mỗi quốc 
gia, trong từng thời kỳ mà số lượng các ngành và tỷ lệ tham gia đầu tư cổ phiếu, trái 
phiếu của các tổ chức và cá nhân nước ngoài vào các doanh nghiệp thuộc các ngành 
có thể khác nhau. 
o Nhà đầu tư cá nhân 
Nhà đầu tư cá nhân là những người tham gia mua bán chứng khoán trên TTCK. 
Cũng giống như những hoạt động đầu tư khác, mục đích của đầu tư chứng khoán 
để tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, mỗi nhà đầu tư có khả năng tài chính, tâm lý 
đầu tư và điều kiện nhân thân khác nhau, do vậy, họ sẽ có thái độ khác nhau 
đối với rủi ro. 
 Bai 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
FIN301_Bai 1_v1.0011101210 7 
 Các nhà đầu tư cá nhân thuộc trường phái thận trọng thường không thích 
rủi ro và rất bảo thủ trong các phương thức đầu tư. Họ tìm mọi cách để 
giảm rủi ro và tìm kiếm lợi nhuận từ những chứng khoán có rủi ro thấp, đầu 
tư dài hạn vào một số chứng khoán nhất định. 
 Các nhà đầu tư cá nhân thuộc trường phái mạo hiểm thường sẵn sàng chấp 
nhận rủi ro nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận thu được. Họ thường đầu tư 
vào các chứng khoán có tỷ lệ rủi ro cao nhưng có lợi nhuận kỳ vọng lớn, 
thường đầu tư ngắn hạn mà không đầu tư lâu dài vào bất cứ một loại chứng 
khoán nào. 
o Nhà đầu tư tổ chức (còn gọi nhà đầu tư chuyên nghiệp) 
Nhà đầu tư tổ chức là các tổ chức thường xuyên mua bán chứng khoán với số 
lượng lớn. Các tổ chức này thường có các bộ phận chức năng bao gồm các 
chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định 
đầu tư. Nhìn chung, có một số nhà đầu tư chuyên nghiệp sau: 
 Công ty đầu tư và quỹ tín thác đầu tư: được 
thành lập nhằm thu hút vốn của nhiều nhà đầu 
tư cá nhân để đầu tư trên TTCK. Ưu điểm nổi 
bật của hình thức đầu tư qua các quỹ tín thác 
là có thể đa dạng hóa danh mục đầu tư và các 
quyết định đầu tư được thực hiện bởi các 
chuyên gia có kinh nghiệm. 
 Công ty bảo hiểm: Công ty bảo hiểm quản lý phí bảo hiểm của những 
người tham gia bảo hiểm và sử dụng số tiền đó để đầu tư dưới các hình thức 
như: gửi ngân hàng, đầu tư vào chứng khoán... Để đảm bảo khả năng thanh 
toán bảo hiểm của công ty bảo hiểm, pháp luật các nước thường có quy 
định khá chặt chẽ về tỷ trọng các khoản đầu tư. 
 Quỹ hưu trí và quỹ bảo hiểm xã hội khác. Các quỹ này thu phí đóng góp 
định kỳ của các cá nhân để sau này trả cho họ lương hưu hay các khoản trợ 
cấp khác. Phần phí thu được chưa phải chi trả có thể được nhà quản lý quỹ 
đầu tư vào các chứng khoán có độ an toàn cao như trái phiếu chính phủ. 
 Các công ty tài chính, các NHTM cũng có thể  ...  biến. Về mặt lý thuyết, huy động vốn qua phát hành chứng 
khoán là một phương pháp hiệu quả vì người cầu vốn sẽ nhận được vốn trực tiếp 
từ người cung vốn, nên có thể giảm được chi phí huy động. Tuy nhiên, trên thực 
tế, điều này còn tùy thuộc vào tính hiệu quả, sự phát triển của TTCK và điều kiện 
thực tế của tổ chức phát hành... 
 Thị trường chứng khoán là tấm gương phản ánh thực trạng và tương lai phát 
triển của doanh nghiệp 
Thị giá chứng khoán của một doanh nghiệp đang giao dịch trên TTCK được coi là 
cơ sở quan trọng đánh giá thực trạng hoạt động của doanh nghiệp đó trong hiện tại 
cũng như trong tương lai. Thị giá cổ phiếu cao hay thấp biểu hiện trạng thái kinh tế 
của doanh nghiệp. Đặc biệt, mức độ cổ tức và giá thặng dư của cổ phiếu (chênh 
lệch giữa giá thị trường và mệnh giá) thể hiện khả năng mang lại lợi tức và thu 
nhập cho các cổ đông. Triển vọng tương lai của mỗi doanh nghiệp cũng được thể 
hiện một cách trực tiếp trên thị giá cổ phiếu và sự diễn biến quá trình biến động thị 
giá cổ phiếu của công ty. 
Như vậy thông qua sự biến động về giá cả chứng khoán và các chỉ số trên TTCK, 
người ta có thể đánh giá được tình trạng "sức khoẻ" của một doanh nghiệp nói 
riêng cũng như của nền kinh tế nói chung cả trong hiện tại và tương lai. 
 Thị trường chứng khoán là công cụ hữu hiệu giúp Nhà nước thực hiện chức 
năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế 
Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền 
kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các 
chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở 
rộng, nền kinh tế đang tăng trưởng và ngược lại, 
giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu suy 
thoái của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được coi là 
phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ 
quan trọng giúp chính phủ thực hiện các chính sách 
kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, chính phủ có thể 
mua và bán trái phiếu chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thiếu hụt ngân sách và 
quản lý lạm phát. Ngoài ra, chính phủ cũng có thể sử dụng một số biện pháp, chính 
sách tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư, đảm bảo sự phát triển cân đối 
của nền kinh tế 
 Bai 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
FIN301_Bai 1_v1.0011101210 21 
 Thị trường chứng khoán là công cụ góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập 
kinh tế quốc tế 
Thị trường chứng khoán là công cụ cho phép vừa thu hút, vừa kiểm soát vốn đầu 
tư nước ngoài một cách hữu hiệu, vì nó hoạt động theo nguyên tắc công khai. 
Nghĩa là mọi đối tượng tham gia mua bán chứng khoán phải công khai và cập nhật 
toàn bộ những thông tin liên quan đến giá trị chứng khoán, công khai khả năng tài 
chính trong các giao dịch mua bán chứng khoán. Tính chuyên nghiệp của các nhà 
đầu tư nước ngoài sẽ góp phần từng bước làm thay đổi tư duy trong đầu tư kinh 
doanh, đổi mới cơ chế quản lý theo xu thế quản lý hiện đại, từng bước góp phần 
khắc phục tình trạng đầu tư thiếu thông tin hoặc thông tin không trung thực, thiếu 
chính xác, đầu tư theo tâm lý, theo trào lưu đám đông của các nhà đầu tư trong 
nước. Hoạt động mua bán chứng khoán của các nhà đầu tư nước ngoài làm tăng 
tính sôi động của thị trường, qua đó góp phần quan trọng vào sự phát triển của 
TTCK của các quốc gia, đặc biệt là ở các TTCK mới nổi. 
Như vậy TTCK không chỉ là công cụ cho phép thu hút và kiểm soát vốn đầu tư 
nước ngoài; mà còn góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của các 
quốc gia. 
Ngoài ra, TTCK còn có các vai trò tích cực khác như: đảm bảo tính thanh khoản 
cho chứng khoán, làm giảm áp lực lạm phát, thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh 
nghiệp nhà nước 
1.4. Các khía cạnh tiêu cực trên thị trường chứng khoán 
TTCK không phải là một công cụ vạn năng, nó không 
thể giải quyết được tất cả các nhu cầu của nền kinh tế 
đặt ra. Bên cạnh những tác động tích cực, do đặc điểm 
của các giao dịch chứng khoán mà rất dễ nảy sinh các 
hành vi vi phạm các nguyên tắc, các quy chế trong 
hoạt động mua bán, đó là "thao túng thị trường", "giao 
dịch nội gián", mua bán CK ngoài TTCK không chính 
thức làm ảnh hưởng đến mục tiêu “công bằng, hiệu quả và phát triển ổn định” của 
thị trường. 
 Thao túng thị trường 
"Thao túng thị trường" có thể được định nghĩa bằng nhiều cách khác nhau, nhưng 
tựu chung lại đều là những hành vi cố ý gây tác động đến thị trường bằng cách vận 
dụng quy luật cung - cầu hoặc các hành vi nhân tạo khác, để tác động đến giá cả 
chứng khoán, nhằm đạt được mục tiêu có lợi cho riêng mình. Thao túng thị trường 
thường được thể hiện dưới các hình thức cụ thể sau: 
o Một là, kết hợp với nhau cùng liên tục mua, hoặc bán một loại chứng khoán, 
gây nên sự khan hiếm hay thừa thãi một cách giả tạo, dẫn đến giá chứng khoán 
gia tăng hoặc giảm sút một cách đột ngột. 
o Hai là, hiện tượng chèn ép, cá lớn nuốt cá bé. Đó là hành vi những thương gia 
lớn thường đẩy giá lên hoặc gìm giá xuống để thu lợi, gây nên những thiệt hại 
 Bai 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
22 FIN301_Bai 1_v1.0011101210 
cho những người có số lượng chứng khoán ít ỏi, vì trên TTCK giá cả hoàn toàn 
do cung cầu quyết định. 
o Ba là, lan truyền tin đồn không chính xác hay 
thông tin lệch lạc về hiện trạng và triển vọng 
của một đơn vị kinh tế. Điều này có thể gây nên 
những hậu quả xấu cho đơn vị phát hành, cho 
thị trường và cho các nhà đầu tư chân chính. 
Hiện tượng “các tin đồn thất thiệt” có thể đem 
đến tình trạng cổ phiếu được đưa ra bán ồ ạt 
làm giá cổ phiếu giảm đột ngột, hoặc tình trạng 
đầu tư gia tăng làm giá cổ phiếu tăng nhanh vượt quá giá trị thực của chúng. 
Những người có ý đồ xấu có thể đứng ra mua (hoặc bán) cổ phiếu đó để khống 
chế công ty và hưởng một số lãi đáng kể sau khi tin đồn đã được kiểm chứng. 
o Bốn là, cố ý gây sai lệch hay hiểu lầm về hoạt động giao dịch của một loại 
chứng khoán. 
o Năm là, tìm mọi biện pháp để duy trì, ổn định mức giá chứng khoán nhằm tạo 
ra những lợi thế cho việc chào bán hoặc phát hành chứng khoán mới. 
o Sáu là, thực hiện các giao dịch được sắp đặt trước, giao dịch giả tạo... 
 Giao dịch nội gián 
“Giao dịch nội gián” là những trường hợp người trong nội bộ tổ chức phát hành, 
hoặc những người do trong quá trình thực hiện những nhiệm vụ nào đó mà có 
được những thông tin chưa công bố ra công chúng, đã sử dụng hoặc trao cho người 
khác sử dụng những thông tin này để đầu tư, tham gia giao dịch có lợi cho mình. 
“Thông tin nội bộ” là những thông tin quan trọng, chưa được công bố, liên quan 
đến một hoặc nhiều người phát hành, một hoặc nhiều người mua, bán chứng khoán 
có kỳ hạn, một hoặc nhiều sản phẩm tài chính đã được niêm yết, mà nếu thông tin 
đó được công bố sẽ có khả năng ảnh hưởng đến giá chứng khoán. Thông tin nội bộ 
bao gồm: những thay đổi lớn trong chính sách đầu tư, quản lý của công ty niêm 
yết, giao dịch của công ty với ngân hàng bị đình chỉ, công ty gặp tổn thất do hiểm 
họa thiên nhiên, các vụ kiện tụng lớn, tình trạng phá sản hay thâu tóm của công ty, 
những khó khăn trong việc trả nợ của công ty, những thay đổi trong ban quản trị, 
các kế hoạch sáp nhập, giải thể công ty... 
Mua bán nội gián được xem như là một hành vi phi đạo đức về mặt thương mại và 
đi ngược lại nguyên tắc: mọi nhà đầu tư phải có cơ hội như nhau. 
 Các hành vi khác 
Mua bán chứng khoán trên TTCK tự do cũng có thể gây nên những hậu quả khó 
lường, vì bộ phận quản lý không thể biết được việc chuyển nhượng quyền sở hữu 
của một đơn vị nào đó. Mọi sự mua bán bên ngoài có khả năng tạo áp lực cho các 
nhà đầu tư khác, thậm chí đưa đến việc khống chế hay thay thế cả lãnh đạo của 
công ty. Do đó hầu hết các thị trường đều quy định mọi giao dịch mua bán cổ 
phiếu đã niêm yết tại SGDCK phải được thực hiện thông qua SGDCK. 
Trên đây là một số biểu hiện cụ thể về các hành vi vi phạm pháp luật chứng khoán. 
Các hành vi nêu trên và những biến tướng tinh vi của nó có thể hạn chế và khắc 
 Bai 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
FIN301_Bai 1_v1.0011101210 23 
phục được bằng việc ban hành một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và có sự quản 
lý, giám sát thường xuyên, chặt chẽ của các cơ quan quản lý thị trường. 
 Câu chuyện thị trường chứng khoán 
 Ngày thứ hai đen tối 
Thứ hai, ngày 19/10/1987, thị trường tài chính Mỹ đã rơi vào một cơn khủng 
hoảng được coi là tồi tệ nhất của thế kỷ 20. Sau 20 năm, những kinh nghiệm 
xương máu rút ra từ Ngày thứ hai đen tối này vẫn còn nguyên giá trị. 
Thảm họa lịch sử 
Những giây phút đầu tiên của phiên giao dịch ngày thứ hai sau 2 ngày nghỉ cuối 
tuần đã khiến những người buôn chứng khoán Phố Wall hoang mang vì hầu hết 
các cổ phiếu đều rớt giá. Khi bắt đầu ngày giao 
dịch, chỉ số Dow Jones giảm 9% (tương đương 
200 điểm); đến cuối ngày, chỉ số Dow Jones đã rớt 
mất 508 điểm, tương đương 23%. Đây là ngưỡng 
mà người ta không thể tưởng tượng nổi bởi vì 
ngay cả trong cơn khủng hoảng ngày 28/10/1929 
(cũng nhằm ngày thứ hai) đã khiến nước Mỹ rơi 
vào thời kỳ Đại khủng hoảng, mức độ suy giảm cũng chỉ vào khoảng 12%. "Các 
nhà đầu tư tại các sàn giao dịch gần như rơi vào trạng thái hoảng loạn. Đó là một 
ngày mà tôi không thể tin là tại sao những điều tồi tệ như vậy lại có thể xảy ra. 
Hệ thống tài chính và thị trường cổ phiếu đã đứng bên bờ vực của sự sụp đổ", 
nhà đầu tư A.Hogan đã nhớ lại. 
Tại thời điểm kinh hoàng đó, các nhà đầu tư gọi điện tới tấp cho những người 
môi giới để tìm cách bán tống bán tháo những cổ phiếu mà họ có, với hy vọng 
vớt vát được phần nào thứ tài sản đang có nguy cơ trở thành giấy lộn của họ. Tuy 
nhiên, chỉ có rất ít người dám mua vào, trong giây lát, nhiều nhà đầu tư đã mất 
hàng trăm triệu USD. Trong cơn hoảng loạn, một số người đã vác súng đến xả 
vào các văn phòng môi giới chứng khoán hoặc kê súng vào đầu tự tử để không 
muốn nhìn thấy những khoản tiền bạc khổng lồ của họ đã ra đi. 
Sau này, một số nhà đầu tư sống sót qua được ngày 19/10/1987 này đã kể lại 
rằng họ không hiểu được lý do nào đã khiến họ bán ồ ạt cổ phiếu lúc đó, ngoại 
trừ việc trông thấy "người khác đang bán cổ phiếu". Ngày 19/10/1987 đã gây ra 
thiệt hại khủng khiếp cho thị trường chứng khoán Mỹ với 560 tỷ USD. 
Ngày thứ hai đen tối lịch sử này không chỉ đến với nước Mỹ mà còn đến với 
những trung tâm tài chính thế giới khác và một "hiệu ứng domino" đã xảy ra. 
Đến cuối tháng 10/1987, thị trường tài chính Úc sụt giảm 41,8%, Hồng Kông 
giảm 45,8% và London giảm 26,4%. 
Đi tìm nguyên nhân 
Hai mươi năm đã trôi qua, gần đây, các nhà tài chính phố Wall đã lên tiếng kêu 
gọi các chuyên gia tài chính, các nhà buôn cổ phiếu nhìn nhận, đánh giá thêm về 
Ngày thứ hai đen tối 19/10/1987 để người ta có thể tránh được một ngày đen tối 
khác có thể đến trong tương lai. Trước đó, đã có rất nhiều các quan điểm đưa ra 
 Bai 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
24 FIN301_Bai 1_v1.0011101210 
về nguyên nhân dẫn đến cơn khủng hoảng khủng khiếp của thị trường chứng 
khoán Mỹ và thế giới năm 1987. Các chuyên gia đều cố sức tìm ra những lý do 
đã khiến cho thị trường này đã rơi vào suy sụp một cách vô cùng nhanh chóng, 
mức độ thiệt hại rất lớn và mang tính toàn cầu như vậy. 
Năm 1986, kinh tế Mỹ đã có dấu hiệu suy giảm, 
tuy nhiên, thị trường chứng khoán Mỹ lại phát 
triển rất nhanh chóng với tốc độ từ 18,5% lên tới 
43,6% vào giữa tháng 8/1987. Cùng lúc, Cục Dự 
trữ liên bang Mỹ đang phải tập trung để đối phó 
với cơn lạm phát và tỷ lệ lãi suất tiền gửi ngân 
hàng đang ở mức rất cao. Tình hình chung này 
kết hợp với xu hướng kinh doanh ăn chênh lệch chỉ số, sự thiếu tính thanh khoản 
của thị trường và tâm lý đầu tư theo kiểu "đám đông" đã góp phần tạo ra Ngày 
thứ hai đen tối của năm 1987. Không ít người còn đổ tội cho vai trò của máy tính 
điện tử trong sự kiện ngày 19/10/1987. Người ta cho rằng hệ thống máy tính đã 
góp phần không nhỏ vào thảm họa này bởi vì chúng cho phép các nhà đầu tư 
thực hiện được một khối lượng giao dịch lớn trong một khoảng thời gian vô cùng 
ngắn ngủi. Tâm lý mua bán theo kiểu "đám đông" với sự hỗ trợ đắc lực của máy 
tính điện tử đã góp phần tạo ra Ngày thứ hai đen tối. 
Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng lẽ ra Ngày thứ hai đen tối năm 1987 đã không đến 
mức nghiêm trọng như vậy nếu các nhà đầu tư cổ phiếu Mỹ tỉnh táo hơn: họ đã bị 
ám ảnh nặng nề bởi một ngày thứ hai đen tối trước đó vào năm 1929. Do vậy, không 
phải ai cũng có đủ tỉnh táo để tìm cách giảm bớt thiệt hại cho chính mình. 
Một Ngày thứ hai đen tối khác? 
Những gì đã xảy ra ở quá khứ đều có thể đến trong tương lai. "Những hiểm họa 
vẫn đang tồn tại và phát triển trong suốt hơn 20 năm qua. Thị trường chứng 
khoán hiện đã mang tính toàn cầu ở mức độ cao hơn, phụ thuộc lẫn nhau và 
chẳng có một hiểm họa nào được coi là của riêng một thị trường chứng khoán 
nào đó", đó là quan điểm của nhà kinh tế học Wachovia (Mỹ). Theo công bố mới 
đây của Hiệp hội Chứng khoán công nghiệp Mỹ, vào những năm 1980, chỉ có 
20% người dân Mỹ mua bán cổ phiếu, hiện nay con số này đã lên tới 60%. Do 
vậy, nếu một khi có một chuyện "không ổn" với thị trường chứng khoán Mỹ thì 
mức độ tổn hại sẽ hơn gấp nhiều lần so với trước đây. 
Các chuyên gia về thị trường chứng khoán lúc nào cũng chăm chú theo dõi 
những yếu tố có quan hệ mật thiết đến Ngày thứ hai đen tối năm 1987. Điều mà 
người ta có thể rút kinh nghiệm được qua những cơn khủng hoảng khủng khiếp 
của lịch sử thị trường chứng khoán là đầu tư đúng hướng sẽ đem đến thành công, 
còn "chơi" chứng khoán thì phải chấp nhận rủi ro. Nhà bác học thiên tài 
I.Newton đã có một câu ví von rằng: "Tôi có thể đo được sự chuyển động của 
các thiên thạch nhưng không thể xác định được mức độ điên cuồng của những 
người chơi chứng khoán". 
Nguồn: IHT
 Bai 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
FIN301_Bai 1_v1.0011101210 25 
TÓM LƯỢC CUỐI BÀI 
Bài 1 cung cấp cho bạn đọc những kiến thức tổng quan về TTCK. Việc hiểu biết một cách đầy 
đủ các đặc điểm của thị trường; vai trò, chức năng của các chủ thể tham gia thị trường; các bộ 
phận cấu thành TTCK với những đặc điểm riêng có của nó; những khía cạnh tiêu cực và các 
hành vi vi phạm pháp luật TTCK là cơ sở nền tảng cho mỗi tổ chức, cá nhân tham gia thị trường 
để thực hiện mục tiêu của mình mà không trái pháp luật. 
 Bai 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
26 FIN301_Bai 1_v1.0011101210 
CÂU HỎI ÔN TẬP 
1. Phân tích khái niệm và các đặc điểm của TTCK? Ý nghĩa của việc nghiên cứu? 
2. Phân tích các chức năng của TTCK? Liên hệ việc vận dụng các chức năng này trong thực tế 
phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam? 
3. Phân tích các vai trò của TTCK? Liên hệ thực tế về việc phát huy các vai trò của TTCK 
Việt Nam? 
4. Trình bày khái niệm và các đặc điểm của TTCK sơ cấp và TTCK thứ cấp? Phân tích mối 
quan hệ giữa TTCK sơ cấp và TTCK thứ cấp? Ý nghĩa của việc nghiên cứu? 
5. Phân tích các điều kiện hình thành và phát triển TTCK? 
6. Các chủ thể tham gia TTCK? Liên hệ thực tế về các chủ thể tham gia TTCK Việt Nam 
hiện nay? 
7. Trình bày các cách phân loại TTCK? Ý nghĩa của việc nghiên cứu? 
8. Trình bày khái niệm và các đặc điểm của TTCK tập trung và thị trường OTC? Chỉ ra những 
điểm khác nhau giữa hai loại thị trường này? 

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_phan_tich_va_dau_tu_chung_khoan_bai_1_tong_quan_ve.pdf