Bài giảng Phân tích và đầu tư chứng khoán - Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
Nội dung
Khái niệm, đặc điểm và các chủ thể tham
gia thị trường chứng khoán
Cấu trúc của thị trường chứng khoán
Thị trường tập trung - Sở giao dịch và
Thị trường phi tập trung - OTC
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
Chức năng và vai trò của thị trường
chứng khoán
Các khía cạnh tiêu cực trên thị trường
chứng khoán
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Phân tích và đầu tư chứng khoán - Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Phân tích và đầu tư chứng khoán - Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
Bai 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán FIN301_Bai 1_v1.0011101210 1 BÀI 1: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Nội dung Khái niệm, đặc điểm và các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán Cấu trúc của thị trường chứng khoán Thị trường tập trung - Sở giao dịch và Thị trường phi tập trung - OTC Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp Chức năng và vai trò của thị trường chứng khoán Các khía cạnh tiêu cực trên thị trường chứng khoán Thời lượng học Mục tiêu 8 tiết Hiểu được khái niệm, đặc điểm của thị trường chứng khoán và mỗi thị trường bộ phận cấu thành. Nắm được các chức năng và vai trò của thị trường. Nhận dạng được các khía cạnh tiêu cực, các hành vi vi phạm pháp luật thị trường chứng khoán. Bai 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán 2 FIN301_Bai 1_v1.0011101210 TÌNH HUỐNG DẪN NHẬP Tình huống Ông Tiến là kế toán trưởng Công ty cổ phần than Bình Minh, ông vừa nhận được Báo cáo tài chính công ty do nhân viên gửi lên. Năm nay công ty ông làm ăn rất tốt do giá than tăng cao và công ty cũng ký được nhiều hợp đồng lớn xuất khẩu than lớn ra nước ngoài. Ông ước tính lợi nhuận năm nay tăng gấp 10 lần năm ngoái. Thông tin này mà được công bố ra ngoài thì cổ phiếu Bình Minh sẽ tăng giá vù vù. Vì thế ông quyết định chưa trình báo cáo tài chính cho Ban Giám đốc ngay mà lập tức gọi điện cho bà Hồng là vợ ông bảo mua ngay cổ phiếu Bình Minh (BMC). Nhận được điện từ chồng, bà Hồng vội vã ra công ty chứng khoán đặt ngay lệnh mua cổ phiếu BMC. Không những vậy bà Hồng còn thông tin cho một người bạn thân cùng mua cổ phiếu Bình Minh. Câu hỏi Theo anh (chị), hành vi của vợ chồng ông Tiến, bà Hồng là đúng hay sai? Giải thích? Nếu sai thì hành vi này bị xử lý như thế nào theo pháp luật TTCK Việt Nam? Bai 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán FIN301_Bai 1_v1.0011101210 3 1.1. Khái niệm, đặc điểm và các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán 1.1.1. Khái niệm và các đặc điểm của thị trường chứng khoán “Thị trường” là một khái niệm cơ bản của kinh tế học và đã được nhiều nhà kinh tế học định nghĩa. Nếu hiểu “thị trường” một cách đơn giản là nơi mua bán hàng hoá thì không sai, nhưng không đầy đủ và không thấy được những loại thị trường không có “chợ” mua bán tập trung. Hơn nữa, nếu hiểu như vậy thì thật khó giải thích về những thị trường “vô hình” với những loại hàng hoá “vô hình” đã và đang ngày càng phát triển như thị trường vốn, thị trường dịch vụ,... Xét về bản chất, thị trường là mối quan hệ kinh tế tổng hợp của 5 thành tố: hàng hoá, cung cầu, giá cả, phương thức giao dịch và thanh toán. Như vậy, nơi nào, lúc nào có đủ 5 thành tố thì nơi đó, khi đó diễn ra hoạt động của thị trường. Có nhiều loại thị trường khác nhau như: thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường sức lao động, thị trường vàng, thị trường ngoại tệ, thị trường chứng khoán... Thị trường chứng khoán (TTCK) là gì? Định nghĩa Thị trường chứng khoán là thị trường diễn ra các hoạt động phát hành, giao dịch mua bán chứng khoán. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp, khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành chứng khoán, và ở thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành từ thị trường sơ cấp. Như vậy, TTCK là thị trường thể hiện quan hệ giữa cung - cầu vốn và là nơi chuyển đổi quyền sở hữu chứng khoán giữa các nhà đầu tư. Giá chứng khoán chứa đựng các thông tin về chi phí vốn, hay còn gọi là giá của vốn đầu tư. TTCK là một bộ phận của thị trường tài chính, là nơi diễn ra quá trình phát hành, mua bán các chứng khoán, đó là các chứng khoán nợ và chứng khoán vốn (còn gọi là công cụ sở hữu). TTCK là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa. Thị trường tài chính bao gồm nhiều bộ phận khác nhau tùy theo tiêu thức phân loại. Theo thời gian chu chuyển vốn, thị trường tài chính bao gồm: Thị trường tiền tệ: là thị trường diễn ra các giao dịch vốn ngắn hạn như thị trường ngoại hối, thị trường tín dụng ngắn hạn, thị trường chứng khoán ngắn hạn. Thị trường vốn: là thị trường diễn ra các giao dịch vốn dài hạn như thị trường cho thuê tài chính, thị trường tín dụng trung và dài hạn, thị trường chứng khoán trung và dài hạn. Chứng khoán bao gồm nhiều loại khác nhau. Theo thời gian lưu hành, có chứng khoán ngắn hạn và chứng khoán dài hạn. Các chứng khoán ngắn hạn thường được mua bán trên thị trường tiền tệ. Các chứng khoán dài hạn như cổ phiếu, trái phiếu thường được phát hành, mua bán trên TTCK. Vì vậy trên thực tế, đôi khi người ta đồng nhất giữa TTCK với thị trường vốn. Bai 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán 4 FIN301_Bai 1_v1.0011101210 Đặc điểm của TTCK Thứ nhất, hàng hoá của TTCK là các loại chứng khoán: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, chứng khoán phái sinh. Chứng khoán có những đặc điểm khác biệt so với các hàng hóa thông thường. Chúng không có những tính năng, tác dụng riêng như các hàng hóa khác, nó là những công cụ chuyển tải giá trị. Vì vậy, trong phát hành cũng như trong đầu tư mua bán chứng khoán người ta không cần quan tâm đến hình thức của chúng. Điều quan trọng cần nghiên cứu, phân tích, đó là: chứng khoán đó thật hay giả, khả năng sinh lợi và rủi ro tiềm ẩn thế nào, khả năng thanh khoản ra sao. Thứ hai, việc chuyển giao vốn từ người cung sang người cầu trên TTCK sơ cấp được thực hiện chủ yếu bởi cơ chế tài chính trực tiếp. Hình 1.1: Quá trình chu chuyển vốn trên thị trường tài chính Trên thị trường tài chính, các nguồn vốn có thể được chuyển từ người cung sang người cầu bằng một trong hai hình thức: gián tiếp hoặc trực tiếp. o Trong kênh tài chính gián tiếp, vốn được luân chuyển từ người cung vốn qua các trung gian tài chính (như ngân hàng thương mại, công ty tài chính) rồi mới chuyển tới người cầu vốn. Trung gian tài chính đứng giữa người cung và người cầu vốn, tiến hành tập trung các nguồn tài chính từ những người cung vốn và trả cho họ một khoản tiền lãi nhất định; sau đó sử dụng các nguồn lực tài chính huy động được để cho những người cầu vốn vay và thu từ họ một khoản tiền lãi nhất định. Trung gian tài chính được hưởng một khoản thu nhập từ phần chênh lệch giữa thu từ cung ứng nguồn lực tài chính và chi cho huy động các nguồn lực tài chính. o Trong kênh tài chính trực tiếp, vốn hay các nguồn tài chính được chuyển trực tiếp từ người cung vốn sang người cầu vốn. Trong quá trình vận động này, Tài chính gián tiếp Tài chính trực tiếp Người cung vốn 1. Hộ gia đình và cá nhân 2. Các tổ chức CTXH 3. Các tổ chức kinh doanh 4. Nhà nước 5. Tổ chức, cá nhân nước ngoài Người cầu vốn 1. Các tổ chức kinh doanh 2. Nhà nước 3. Hộ gia đình và cá nhân 4. Các tổ chức CTXH 5. Tổ chức, cá nhân nước ngoài Thị trường tài chính Người trung gian 1. Ngân hàng 2. Tổ chức KD tiền tệ 3. Công ty môi giới CK 4. Nhà môi giới độc lập 5. Tổ chức, cá nhân nước Vốn Vốn Vốn Vốn Vốn Bai 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán FIN301_Bai 1_v1.0011101210 5 nguồn tài chính không dừng lại ở bất kỳ một tổ chức tài chính trung gian nào. Người có nhu cầu sử dụng vốn phải trả chi phí sử dụng vốn cho người cung vốn. Tuy nhiên, trong hình thức tài trợ trực tiếp, nguồn vốn có thể chuyển tới người có nhu cầu theo 2 hình thức: tài trợ trực tiếp qua trung gian và tài trợ trực tiếp không qua trung gian. Tài trợ trực tiếp qua trung gian: là một hình thức luân chuyển các nguồn tài chính, trong đó ngoài người cung vốn và người cầu vốn còn xuất hiện một trung gian đứng ra tổ chức, thu xếp việc thực hiện giao dịch tài chính giữa người cung và người cầu. Ở hình thức này, nguồn tài chính không dừng lại ở trung gian (như trong tài trợ gián tiếp) song người cầu vốn (tổ chức phát hành) phải trả một khoản phí nhất định cho người trung gian ngoài chi phí sử dụng vốn, ví dụ: hoa hồng đại lý, phí bảo lãnh phát hành chứng khoán. Đây là loại hình luân chuyển các nguồn tài chính phát sinh khá phổ biến trên thị trường. Tài trợ trực tiếp không qua trung gian: là hình thức luân chuyển trực tiếp các nguồn tài chính giữa người cung vốn và người cầu vốn mà không cần qua bất kỳ một trung gian nào. Người cung vốn và người cầu vốn trực tiếp thỏa thuận các điều kiện giao dịch. Trong hình thức này, người cầu vốn chỉ phải trả chi phí sử dụng vốn cho người cung vốn để có quyền sử dụng vốn trong những khoảng thời gian nhất định. Hình thức này phát sinh phổ biến trong phát hành chứng khoán nội bộ, nhà đầu tư mua chứng khoán trực tiếp từ tổ chức phát hành. Thực tế phát triển TTCK cho thấy, hầu hết các hoạt động phát hành chứng khoán để huy động vốn của các tổ chức phát hành được thực hiện thông qua các hình thức tài trợ trực tiếp qua trung gian hoặc không qua trung gian. Thứ ba, hoạt động mua bán trên TTCK chủ yếu được thực hiện qua người môi giới. TTCK được cấu thành bởi nhiều bộ phận thị trường, trong đó TTCK tập trung là bộ phận quan trọng. Do hàng hóa của thị trường này là các công cụ chuyển tải giá trị, nên bằng những giác quan thông thường nhà đầu tư khó có khả năng phân biệt được chứng khoán đó có đảm bảo yêu cầu về mặt pháp lý cũng như chất lượng của chúng. Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho nhà đầu tư, đảm bảo TTCK hoạt động đúng pháp luật, công bằng, công khai và hiệu quả, luật pháp các nước thường quy định hoạt động mua bán chứng khoán trên các thị trường có tổ chức phải thông qua các trung gian, đó là những nhà môi giới chứng khoán đã được cấp phép là thành viên giao dịch của thị trường đó. Các nhà đầu tư muốn mua hoặc bán chứng khoán không thể đến thị trường đàm phán để mua bán trực tiếp, mà bắt buộc phải đặt lệnh mua bán qua các nhà môi giới chứng khoán. Thứ tư, TTCK gần với thị trường cạnh tranh hoàn hảo. TTCK bao gồm nhiều bộ phận thị trường khác nhau, trong đó TTCK tập trung là bộ phận trung tâm. Ở thị trường này, mọi người đều được tự do mua và bán theo nguyên tắc hoạt động của thị trường, không có sự áp đặt giá trên TTCK. Giá chứng khoán được xác định dựa trên quan hệ cung cầu của thị trường và phản ánh các thông tin có liên quan đến chứng khoán. Bai 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán 6 FIN301_Bai 1_v1.0011101210 Thứ năm, TTCK về cơ bản là thị trường liên tục. Sau khi các chứng khoán được phát hành trên thị trường sơ cấp, nó có thể được mua đi bán lại nhiều lần trên thị trường thứ cấp. TTCK đảm bảo cho những người đầu tư có thể chuyển các chứng khoán của họ nắm giữ thành tiền bất cứ lúc nào họ muốn. Trên đây là một số đặc điểm cơ bản của TTCK. Những đặc điểm này là cơ sở để phân biệt sự khác nhau giữa TTCK với các thị trường khác; đồng thời đó cũng là những điểm nhấn tạo ra sự hấp dẫn của TTCK đối với các tổ chức phát hành, nhà đầu tư và kinh doanh chứng khoán. Đặc biệt đối với các tổ chức phát hành, TTCK là kênh huy động vốn trung và dài hạn rất thuận lợi vì với đặc điểm “thị trường chứng khoán là thị trường liên tục” đã tạo điều kiện cho các nguồn vốn ngắn hạn của nhà đầu tư trở thành nguồn vốn dài hạn của tổ chức phát hành. 1.1.2. Các chủ thể tham gia TTCK Chủ thể tham gia TTCK thường bao gồm: tổ chức phát hành, nhà đầu tư, tổ chức kinh doanh chứng khoán, tổ chức quản lý TTCK và các tổ chức phụ trợ khác. Tổ chức phát hành chứng khoán Tổ chức phát hành chứng khoán là các tổ chức cần vốn và thực hiện huy động vốn thông qua TTCK. Tổ chức phát hành là người cung cấp hàng hóa cho thị trường và có trách nhiệm công bố các thông tin về chứng khoán. Các tổ chức được phát hành chứng khoán gồm: o Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương: phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu địa phương. o Doanh nghiệp (bao gồm cả các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực tài chính ngân hàng và phi tài chính): phát hành cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp. Theo luật lệ của hầu hết các quốc gia, cổ phiếu chỉ do một chủ thể duy nhất phát hành, đó là công ty cổ phần; còn trái phiếu có thể do nhiều loại hình doanh nghiệp phát hành như: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp nhà nước. o Công ty quản lý quỹ đầu tư: phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư. Nhà đầu tư chứng khoán Nhà đầu tư chứng khoán là những người bỏ tiền đầu tư vào chứng khoán nhằm mục đích thu lợi nhuận. Có thể chia nhà đầu tư thành nhiều nhóm như: nhà đầu tư tổ chức, nhà đầu tư cá nhân, nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Tùy theo chính sách quản lý nguồn vốn đầu tư nước ngoài của mỗi quốc gia, trong từng thời kỳ mà số lượng các ngành và tỷ lệ tham gia đầu tư cổ phiếu, trái phiếu của các tổ chức và cá nhân nước ngoài vào các doanh nghiệp thuộc các ngành có thể khác nhau. o Nhà đầu tư cá nhân Nhà đầu tư cá nhân là những người tham gia mua bán chứng khoán trên TTCK. Cũng giống như những hoạt động đầu tư khác, mục đích của đầu tư chứng khoán để tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, mỗi nhà đầu tư có khả năng tài chính, tâm lý đầu tư và điều kiện nhân thân khác nhau, do vậy, họ sẽ có thái độ khác nhau đối với rủi ro. Bai 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán FIN301_Bai 1_v1.0011101210 7 Các nhà đầu tư cá nhân thuộc trường phái thận trọng thường không thích rủi ro và rất bảo thủ trong các phương thức đầu tư. Họ tìm mọi cách để giảm rủi ro và tìm kiếm lợi nhuận từ những chứng khoán có rủi ro thấp, đầu tư dài hạn vào một số chứng khoán nhất định. Các nhà đầu tư cá nhân thuộc trường phái mạo hiểm thường sẵn sàng chấp nhận rủi ro nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận thu được. Họ thường đầu tư vào các chứng khoán có tỷ lệ rủi ro cao nhưng có lợi nhuận kỳ vọng lớn, thường đầu tư ngắn hạn mà không đầu tư lâu dài vào bất cứ một loại chứng khoán nào. o Nhà đầu tư tổ chức (còn gọi nhà đầu tư chuyên nghiệp) Nhà đầu tư tổ chức là các tổ chức thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn. Các tổ chức này thường có các bộ phận chức năng bao gồm các chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Nhìn chung, có một số nhà đầu tư chuyên nghiệp sau: Công ty đầu tư và quỹ tín thác đầu tư: được thành lập nhằm thu hút vốn của nhiều nhà đầu tư cá nhân để đầu tư trên TTCK. Ưu điểm nổi bật của hình thức đầu tư qua các quỹ tín thác là có thể đa dạng hóa danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm. Công ty bảo hiểm: Công ty bảo hiểm quản lý phí bảo hiểm của những người tham gia bảo hiểm và sử dụng số tiền đó để đầu tư dưới các hình thức như: gửi ngân hàng, đầu tư vào chứng khoán... Để đảm bảo khả năng thanh toán bảo hiểm của công ty bảo hiểm, pháp luật các nước thường có quy định khá chặt chẽ về tỷ trọng các khoản đầu tư. Quỹ hưu trí và quỹ bảo hiểm xã hội khác. Các quỹ này thu phí đóng góp định kỳ của các cá nhân để sau này trả cho họ lương hưu hay các khoản trợ cấp khác. Phần phí thu được chưa phải chi trả có thể được nhà quản lý quỹ đầu tư vào các chứng khoán có độ an toàn cao như trái phiếu chính phủ. Các công ty tài chính, các NHTM cũng có thể ... biến. Về mặt lý thuyết, huy động vốn qua phát hành chứng khoán là một phương pháp hiệu quả vì người cầu vốn sẽ nhận được vốn trực tiếp từ người cung vốn, nên có thể giảm được chi phí huy động. Tuy nhiên, trên thực tế, điều này còn tùy thuộc vào tính hiệu quả, sự phát triển của TTCK và điều kiện thực tế của tổ chức phát hành... Thị trường chứng khoán là tấm gương phản ánh thực trạng và tương lai phát triển của doanh nghiệp Thị giá chứng khoán của một doanh nghiệp đang giao dịch trên TTCK được coi là cơ sở quan trọng đánh giá thực trạng hoạt động của doanh nghiệp đó trong hiện tại cũng như trong tương lai. Thị giá cổ phiếu cao hay thấp biểu hiện trạng thái kinh tế của doanh nghiệp. Đặc biệt, mức độ cổ tức và giá thặng dư của cổ phiếu (chênh lệch giữa giá thị trường và mệnh giá) thể hiện khả năng mang lại lợi tức và thu nhập cho các cổ đông. Triển vọng tương lai của mỗi doanh nghiệp cũng được thể hiện một cách trực tiếp trên thị giá cổ phiếu và sự diễn biến quá trình biến động thị giá cổ phiếu của công ty. Như vậy thông qua sự biến động về giá cả chứng khoán và các chỉ số trên TTCK, người ta có thể đánh giá được tình trạng "sức khoẻ" của một doanh nghiệp nói riêng cũng như của nền kinh tế nói chung cả trong hiện tại và tương lai. Thị trường chứng khoán là công cụ hữu hiệu giúp Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế đang tăng trưởng và ngược lại, giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu suy thoái của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được coi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, chính phủ có thể mua và bán trái phiếu chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thiếu hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, chính phủ cũng có thể sử dụng một số biện pháp, chính sách tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư, đảm bảo sự phát triển cân đối của nền kinh tế Bai 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán FIN301_Bai 1_v1.0011101210 21 Thị trường chứng khoán là công cụ góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Thị trường chứng khoán là công cụ cho phép vừa thu hút, vừa kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài một cách hữu hiệu, vì nó hoạt động theo nguyên tắc công khai. Nghĩa là mọi đối tượng tham gia mua bán chứng khoán phải công khai và cập nhật toàn bộ những thông tin liên quan đến giá trị chứng khoán, công khai khả năng tài chính trong các giao dịch mua bán chứng khoán. Tính chuyên nghiệp của các nhà đầu tư nước ngoài sẽ góp phần từng bước làm thay đổi tư duy trong đầu tư kinh doanh, đổi mới cơ chế quản lý theo xu thế quản lý hiện đại, từng bước góp phần khắc phục tình trạng đầu tư thiếu thông tin hoặc thông tin không trung thực, thiếu chính xác, đầu tư theo tâm lý, theo trào lưu đám đông của các nhà đầu tư trong nước. Hoạt động mua bán chứng khoán của các nhà đầu tư nước ngoài làm tăng tính sôi động của thị trường, qua đó góp phần quan trọng vào sự phát triển của TTCK của các quốc gia, đặc biệt là ở các TTCK mới nổi. Như vậy TTCK không chỉ là công cụ cho phép thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài; mà còn góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của các quốc gia. Ngoài ra, TTCK còn có các vai trò tích cực khác như: đảm bảo tính thanh khoản cho chứng khoán, làm giảm áp lực lạm phát, thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 1.4. Các khía cạnh tiêu cực trên thị trường chứng khoán TTCK không phải là một công cụ vạn năng, nó không thể giải quyết được tất cả các nhu cầu của nền kinh tế đặt ra. Bên cạnh những tác động tích cực, do đặc điểm của các giao dịch chứng khoán mà rất dễ nảy sinh các hành vi vi phạm các nguyên tắc, các quy chế trong hoạt động mua bán, đó là "thao túng thị trường", "giao dịch nội gián", mua bán CK ngoài TTCK không chính thức làm ảnh hưởng đến mục tiêu “công bằng, hiệu quả và phát triển ổn định” của thị trường. Thao túng thị trường "Thao túng thị trường" có thể được định nghĩa bằng nhiều cách khác nhau, nhưng tựu chung lại đều là những hành vi cố ý gây tác động đến thị trường bằng cách vận dụng quy luật cung - cầu hoặc các hành vi nhân tạo khác, để tác động đến giá cả chứng khoán, nhằm đạt được mục tiêu có lợi cho riêng mình. Thao túng thị trường thường được thể hiện dưới các hình thức cụ thể sau: o Một là, kết hợp với nhau cùng liên tục mua, hoặc bán một loại chứng khoán, gây nên sự khan hiếm hay thừa thãi một cách giả tạo, dẫn đến giá chứng khoán gia tăng hoặc giảm sút một cách đột ngột. o Hai là, hiện tượng chèn ép, cá lớn nuốt cá bé. Đó là hành vi những thương gia lớn thường đẩy giá lên hoặc gìm giá xuống để thu lợi, gây nên những thiệt hại Bai 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán 22 FIN301_Bai 1_v1.0011101210 cho những người có số lượng chứng khoán ít ỏi, vì trên TTCK giá cả hoàn toàn do cung cầu quyết định. o Ba là, lan truyền tin đồn không chính xác hay thông tin lệch lạc về hiện trạng và triển vọng của một đơn vị kinh tế. Điều này có thể gây nên những hậu quả xấu cho đơn vị phát hành, cho thị trường và cho các nhà đầu tư chân chính. Hiện tượng “các tin đồn thất thiệt” có thể đem đến tình trạng cổ phiếu được đưa ra bán ồ ạt làm giá cổ phiếu giảm đột ngột, hoặc tình trạng đầu tư gia tăng làm giá cổ phiếu tăng nhanh vượt quá giá trị thực của chúng. Những người có ý đồ xấu có thể đứng ra mua (hoặc bán) cổ phiếu đó để khống chế công ty và hưởng một số lãi đáng kể sau khi tin đồn đã được kiểm chứng. o Bốn là, cố ý gây sai lệch hay hiểu lầm về hoạt động giao dịch của một loại chứng khoán. o Năm là, tìm mọi biện pháp để duy trì, ổn định mức giá chứng khoán nhằm tạo ra những lợi thế cho việc chào bán hoặc phát hành chứng khoán mới. o Sáu là, thực hiện các giao dịch được sắp đặt trước, giao dịch giả tạo... Giao dịch nội gián “Giao dịch nội gián” là những trường hợp người trong nội bộ tổ chức phát hành, hoặc những người do trong quá trình thực hiện những nhiệm vụ nào đó mà có được những thông tin chưa công bố ra công chúng, đã sử dụng hoặc trao cho người khác sử dụng những thông tin này để đầu tư, tham gia giao dịch có lợi cho mình. “Thông tin nội bộ” là những thông tin quan trọng, chưa được công bố, liên quan đến một hoặc nhiều người phát hành, một hoặc nhiều người mua, bán chứng khoán có kỳ hạn, một hoặc nhiều sản phẩm tài chính đã được niêm yết, mà nếu thông tin đó được công bố sẽ có khả năng ảnh hưởng đến giá chứng khoán. Thông tin nội bộ bao gồm: những thay đổi lớn trong chính sách đầu tư, quản lý của công ty niêm yết, giao dịch của công ty với ngân hàng bị đình chỉ, công ty gặp tổn thất do hiểm họa thiên nhiên, các vụ kiện tụng lớn, tình trạng phá sản hay thâu tóm của công ty, những khó khăn trong việc trả nợ của công ty, những thay đổi trong ban quản trị, các kế hoạch sáp nhập, giải thể công ty... Mua bán nội gián được xem như là một hành vi phi đạo đức về mặt thương mại và đi ngược lại nguyên tắc: mọi nhà đầu tư phải có cơ hội như nhau. Các hành vi khác Mua bán chứng khoán trên TTCK tự do cũng có thể gây nên những hậu quả khó lường, vì bộ phận quản lý không thể biết được việc chuyển nhượng quyền sở hữu của một đơn vị nào đó. Mọi sự mua bán bên ngoài có khả năng tạo áp lực cho các nhà đầu tư khác, thậm chí đưa đến việc khống chế hay thay thế cả lãnh đạo của công ty. Do đó hầu hết các thị trường đều quy định mọi giao dịch mua bán cổ phiếu đã niêm yết tại SGDCK phải được thực hiện thông qua SGDCK. Trên đây là một số biểu hiện cụ thể về các hành vi vi phạm pháp luật chứng khoán. Các hành vi nêu trên và những biến tướng tinh vi của nó có thể hạn chế và khắc Bai 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán FIN301_Bai 1_v1.0011101210 23 phục được bằng việc ban hành một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và có sự quản lý, giám sát thường xuyên, chặt chẽ của các cơ quan quản lý thị trường. Câu chuyện thị trường chứng khoán Ngày thứ hai đen tối Thứ hai, ngày 19/10/1987, thị trường tài chính Mỹ đã rơi vào một cơn khủng hoảng được coi là tồi tệ nhất của thế kỷ 20. Sau 20 năm, những kinh nghiệm xương máu rút ra từ Ngày thứ hai đen tối này vẫn còn nguyên giá trị. Thảm họa lịch sử Những giây phút đầu tiên của phiên giao dịch ngày thứ hai sau 2 ngày nghỉ cuối tuần đã khiến những người buôn chứng khoán Phố Wall hoang mang vì hầu hết các cổ phiếu đều rớt giá. Khi bắt đầu ngày giao dịch, chỉ số Dow Jones giảm 9% (tương đương 200 điểm); đến cuối ngày, chỉ số Dow Jones đã rớt mất 508 điểm, tương đương 23%. Đây là ngưỡng mà người ta không thể tưởng tượng nổi bởi vì ngay cả trong cơn khủng hoảng ngày 28/10/1929 (cũng nhằm ngày thứ hai) đã khiến nước Mỹ rơi vào thời kỳ Đại khủng hoảng, mức độ suy giảm cũng chỉ vào khoảng 12%. "Các nhà đầu tư tại các sàn giao dịch gần như rơi vào trạng thái hoảng loạn. Đó là một ngày mà tôi không thể tin là tại sao những điều tồi tệ như vậy lại có thể xảy ra. Hệ thống tài chính và thị trường cổ phiếu đã đứng bên bờ vực của sự sụp đổ", nhà đầu tư A.Hogan đã nhớ lại. Tại thời điểm kinh hoàng đó, các nhà đầu tư gọi điện tới tấp cho những người môi giới để tìm cách bán tống bán tháo những cổ phiếu mà họ có, với hy vọng vớt vát được phần nào thứ tài sản đang có nguy cơ trở thành giấy lộn của họ. Tuy nhiên, chỉ có rất ít người dám mua vào, trong giây lát, nhiều nhà đầu tư đã mất hàng trăm triệu USD. Trong cơn hoảng loạn, một số người đã vác súng đến xả vào các văn phòng môi giới chứng khoán hoặc kê súng vào đầu tự tử để không muốn nhìn thấy những khoản tiền bạc khổng lồ của họ đã ra đi. Sau này, một số nhà đầu tư sống sót qua được ngày 19/10/1987 này đã kể lại rằng họ không hiểu được lý do nào đã khiến họ bán ồ ạt cổ phiếu lúc đó, ngoại trừ việc trông thấy "người khác đang bán cổ phiếu". Ngày 19/10/1987 đã gây ra thiệt hại khủng khiếp cho thị trường chứng khoán Mỹ với 560 tỷ USD. Ngày thứ hai đen tối lịch sử này không chỉ đến với nước Mỹ mà còn đến với những trung tâm tài chính thế giới khác và một "hiệu ứng domino" đã xảy ra. Đến cuối tháng 10/1987, thị trường tài chính Úc sụt giảm 41,8%, Hồng Kông giảm 45,8% và London giảm 26,4%. Đi tìm nguyên nhân Hai mươi năm đã trôi qua, gần đây, các nhà tài chính phố Wall đã lên tiếng kêu gọi các chuyên gia tài chính, các nhà buôn cổ phiếu nhìn nhận, đánh giá thêm về Ngày thứ hai đen tối 19/10/1987 để người ta có thể tránh được một ngày đen tối khác có thể đến trong tương lai. Trước đó, đã có rất nhiều các quan điểm đưa ra Bai 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán 24 FIN301_Bai 1_v1.0011101210 về nguyên nhân dẫn đến cơn khủng hoảng khủng khiếp của thị trường chứng khoán Mỹ và thế giới năm 1987. Các chuyên gia đều cố sức tìm ra những lý do đã khiến cho thị trường này đã rơi vào suy sụp một cách vô cùng nhanh chóng, mức độ thiệt hại rất lớn và mang tính toàn cầu như vậy. Năm 1986, kinh tế Mỹ đã có dấu hiệu suy giảm, tuy nhiên, thị trường chứng khoán Mỹ lại phát triển rất nhanh chóng với tốc độ từ 18,5% lên tới 43,6% vào giữa tháng 8/1987. Cùng lúc, Cục Dự trữ liên bang Mỹ đang phải tập trung để đối phó với cơn lạm phát và tỷ lệ lãi suất tiền gửi ngân hàng đang ở mức rất cao. Tình hình chung này kết hợp với xu hướng kinh doanh ăn chênh lệch chỉ số, sự thiếu tính thanh khoản của thị trường và tâm lý đầu tư theo kiểu "đám đông" đã góp phần tạo ra Ngày thứ hai đen tối của năm 1987. Không ít người còn đổ tội cho vai trò của máy tính điện tử trong sự kiện ngày 19/10/1987. Người ta cho rằng hệ thống máy tính đã góp phần không nhỏ vào thảm họa này bởi vì chúng cho phép các nhà đầu tư thực hiện được một khối lượng giao dịch lớn trong một khoảng thời gian vô cùng ngắn ngủi. Tâm lý mua bán theo kiểu "đám đông" với sự hỗ trợ đắc lực của máy tính điện tử đã góp phần tạo ra Ngày thứ hai đen tối. Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng lẽ ra Ngày thứ hai đen tối năm 1987 đã không đến mức nghiêm trọng như vậy nếu các nhà đầu tư cổ phiếu Mỹ tỉnh táo hơn: họ đã bị ám ảnh nặng nề bởi một ngày thứ hai đen tối trước đó vào năm 1929. Do vậy, không phải ai cũng có đủ tỉnh táo để tìm cách giảm bớt thiệt hại cho chính mình. Một Ngày thứ hai đen tối khác? Những gì đã xảy ra ở quá khứ đều có thể đến trong tương lai. "Những hiểm họa vẫn đang tồn tại và phát triển trong suốt hơn 20 năm qua. Thị trường chứng khoán hiện đã mang tính toàn cầu ở mức độ cao hơn, phụ thuộc lẫn nhau và chẳng có một hiểm họa nào được coi là của riêng một thị trường chứng khoán nào đó", đó là quan điểm của nhà kinh tế học Wachovia (Mỹ). Theo công bố mới đây của Hiệp hội Chứng khoán công nghiệp Mỹ, vào những năm 1980, chỉ có 20% người dân Mỹ mua bán cổ phiếu, hiện nay con số này đã lên tới 60%. Do vậy, nếu một khi có một chuyện "không ổn" với thị trường chứng khoán Mỹ thì mức độ tổn hại sẽ hơn gấp nhiều lần so với trước đây. Các chuyên gia về thị trường chứng khoán lúc nào cũng chăm chú theo dõi những yếu tố có quan hệ mật thiết đến Ngày thứ hai đen tối năm 1987. Điều mà người ta có thể rút kinh nghiệm được qua những cơn khủng hoảng khủng khiếp của lịch sử thị trường chứng khoán là đầu tư đúng hướng sẽ đem đến thành công, còn "chơi" chứng khoán thì phải chấp nhận rủi ro. Nhà bác học thiên tài I.Newton đã có một câu ví von rằng: "Tôi có thể đo được sự chuyển động của các thiên thạch nhưng không thể xác định được mức độ điên cuồng của những người chơi chứng khoán". Nguồn: IHT Bai 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán FIN301_Bai 1_v1.0011101210 25 TÓM LƯỢC CUỐI BÀI Bài 1 cung cấp cho bạn đọc những kiến thức tổng quan về TTCK. Việc hiểu biết một cách đầy đủ các đặc điểm của thị trường; vai trò, chức năng của các chủ thể tham gia thị trường; các bộ phận cấu thành TTCK với những đặc điểm riêng có của nó; những khía cạnh tiêu cực và các hành vi vi phạm pháp luật TTCK là cơ sở nền tảng cho mỗi tổ chức, cá nhân tham gia thị trường để thực hiện mục tiêu của mình mà không trái pháp luật. Bai 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán 26 FIN301_Bai 1_v1.0011101210 CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Phân tích khái niệm và các đặc điểm của TTCK? Ý nghĩa của việc nghiên cứu? 2. Phân tích các chức năng của TTCK? Liên hệ việc vận dụng các chức năng này trong thực tế phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam? 3. Phân tích các vai trò của TTCK? Liên hệ thực tế về việc phát huy các vai trò của TTCK Việt Nam? 4. Trình bày khái niệm và các đặc điểm của TTCK sơ cấp và TTCK thứ cấp? Phân tích mối quan hệ giữa TTCK sơ cấp và TTCK thứ cấp? Ý nghĩa của việc nghiên cứu? 5. Phân tích các điều kiện hình thành và phát triển TTCK? 6. Các chủ thể tham gia TTCK? Liên hệ thực tế về các chủ thể tham gia TTCK Việt Nam hiện nay? 7. Trình bày các cách phân loại TTCK? Ý nghĩa của việc nghiên cứu? 8. Trình bày khái niệm và các đặc điểm của TTCK tập trung và thị trường OTC? Chỉ ra những điểm khác nhau giữa hai loại thị trường này?
File đính kèm:
- bai_giang_phan_tich_va_dau_tu_chung_khoan_bai_1_tong_quan_ve.pdf