Bài giảng Nhân học ứng dụng - Nguyễn Văn Tiệp (Phần 2)
CHƯƠNG 3: NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH TRONG NHÂN HỌC
I. NHÂN HỌC NHƯ LÀ VIỆC NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH
Mục đích của nghiên cứu chính sách là cung cấp thông tin cho các nhà ra quyết
định để ủng hộ cho việc hình thành, thực thi, và đánh giá duy lý về chính sách.
Các chính sách có thể được xem là những chiến lược hành động và sự lựa chọn
được sử dụng để đạt được các mục đích mong muốn. Đa phần chúng ta nghĩ đến
chính sách trong bối cảnh các dạng tổ chức chính thức đa dạng khác nhau chẳng
hạn như các tổ chức xã hội, các thiết chế giáo dục, các công ty kinh doanh, và
các cấp chính quyền. Có nhiều loại chính sách khác nhau.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Nhân học ứng dụng - Nguyễn Văn Tiệp (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Nhân học ứng dụng - Nguyễn Văn Tiệp (Phần 2)
155 cộng đồng. Nó hoàn toàn khác với các cách tiếp cận khác được trình bày trong cuốn sách này và hầu như nó luôn bắt đầu bằng sự đánh giá chuyên môn liên quan đến một vấn đề đặc biệt. Đó là, một ai đó quyết định rằng hút thuốc thì xấu và dây an toàn của xe hơi thì tốt. Công việc của các nhà tiếp thị xã hội là để chỉ ra cách tiếp cận được người dân bằng những thông điệp được thiết kế cẩn thận để người dân có thể thay đổi hành vi. Sức mạnh của các nhà nhân học trong quá trình này là khả năng ông hay bà ta đề cập đến những phương tiện liên quan đến hành vi đặc biệt có ích và hợp tác với “những người đưa ra các thông điệp” để tạo ra những quảng cáo có ích, những thông tin về dịch vụ công cộng, những tờ quảng cáo và các loại phương tiện khác để đạt được mục đích. CHƯƠNG 3: NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH TRONG NHÂN HỌC I. NHÂN HỌC NHƯ LÀ VIỆC NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH Mục đích của nghiên cứu chính sách là cung cấp thông tin cho các nhà ra quyết định để ủng hộ cho việc hình thành, thực thi, và đánh giá duy lý về chính sách. Các chính sách có thể được xem là những chiến lược hành động và sự lựa chọn được sử dụng để đạt được các mục đích mong muốn. Đa phần chúng ta nghĩ đến chính sách trong bối cảnh các dạng tổ chức chính thức đa dạng khác nhau chẳng hạn như các tổ chức xã hội, các thiết chế giáo dục, các công ty kinh doanh, và các cấp chính quyền. Có nhiều loại chính sách khác nhau. Chúng tôi sử dụng các thuật ngữ chẳng hạn như chính sách công, chính sách xã hội, chính sách thực phẩm, chính sách việc làm, chính sách công nghiệp, chính sách đối ngoại, và các 156 chính sách khác để định rõ các chiến lược hành động và sự lựa chọn mà chính phủ và các tổ chức khác sử dụng ở các khía cạnh khác nhau tại các xã hội phức tạp. Những thuật ngữ này phản ảnh những tình huống khá khác nhau về nội dung và phạm vi, tuy nhiên tất cả đều liên quan đến hệ thống các vấn đề cơ bản. Đó là, tất cả các chính sách đều liên quan đến giá trị. Việc hình thành chính sách liên quan đến việc định rõ hành vi mà bắt buộc phải đạt được một điều kiện có giá trị. Cụ thể là, một chính sách là một giả thuyết về mối quan hệ giữa hành vi và các giá trị. Nó có hình thức: nếu chúng ta muốn có một cách làm nào đó thì chúng ta cần phải hành động theo cách này. Ở mức độ cơ bản, các chính sách liên quan đến việc phân phối các quyết định – các quyết định dùng tiền và thời gian để đạt được điều gì đó. “Điều gì đó” có thể khá đa dạng, bao gồm sự gia tăng tổng sản lượng quốc gia, sự suy giảm tỷ lệ thất nghiệp, sự suy giảm giá cả tương đối của lương thực chủ yếu ở các vùng đô thị, sự suy giảm số lượng trẻ vị thành niên có thai, hay sự gia tăng tính công bằng trong việc phân phối nhà cửa. Những mối quan tâm quốc gia quy mô lớn này có thể phù hợp với các mối quan tâm địa phương quy mô nhỏ hơn, giống như sự gia tăng về tài nguyên công trong việc hoạch định xây dựng một con đập, việc quyết định tính hữu ích của một dự án phát triển cụ thể, hay sự nhận diện các nhu cầu địa phương cho một loại chương trình giáo dục nào đó. Nghiên cứu chính sách có thể xuất hiện ở cả hai phía của một vấn đề chính sách và có thể là ở phía đối lập. Các nhóm cộng đồng có thể thực hiện nghiên cứu chính sách như là một đối trọng chính trị đối với nghiên cứu do chính phủ thực hiện. 1. Qúa trình chính sách Chính sách nên được hiểu dưới dạng một quá trình. Quá trình chính sách rất phức tạp. Nói đến quá trình theo nghĩa đơn giản nhất có thể chúng ta có thể nói là quá trình này gồm có các bước sau: 1. Nhận thức được nhu cầu 2. Hình thành các giải pháp khác nhau 3. Đánh giá các giải pháp khác nhau 157 4. Hình thành chính sách 5. Thực thi chính sách 6. Đánh giá chính sách Quá trình này được thực hiện trên chính trường có nhiều sự cạnh tranh về nguồn tài nguyên. Vì thế những gì sẽ xuất hiện trong một biểu đồ giản lược trông gọn gàng hợp lý và trật tự có thể được quyết định bằng những động lực tiềm ẩn, sự thỏa hiệp, và việc sử dụng quyền lực chính trị thẳng thừng. Sự cạnh tranh buộc các phân phối quyết định càng phải cẩn thận hơn. Độ phức tạp của sự cạnh tranh tạo ra các cơ hội cho các nhà nghiên cứu chính sách. Nghiên cứu chính sách gồm có một sự đa dạng nhiều các hoạt động mà bằng cách này hay cách khác ủng hộ cho quá trình mà qua đó nhu cầu được xác định và các chính sách được hình thành, thực thi, và đánh giá. Mỗi giai đoạn trong quy trình chính sách được liên kết với nhu cầu nghiên cứu và các cơ hội. Nhiều chính sách được hình thành mà không có sự giúp đỡ của các nỗ lực nghiên cứu cụ thể. Sau đó thì khoa học xã hội lại thường có khuynh hướng thông tin cho những người tham gia trong lĩnh vực chính sách để mà khoa học xã hội tiếp tục được đưa ra để có ảnh hưởng đến các vấn đề chính sách mà không thực sự bị ràng buộc với mục đích hình thành một chính sách cụ thể. Trong những trường hợp này chúng ta có thể đề cập đến nghiên cứu chính sách thích hợp. Có nhiều điểm khác nhau trong quá trình chính sách nơi mà có thể sử dụng nghiên cứu do các nhà nhân học văn hóa thực hiện. Đa số các nghiên cứu do các nhà nhân học thực hiện trong đấu trường này gồm những nghiên cứu được thực hiện vì một chính sách thay vì quyết định nên là chính sách nào. Đánh giá một chương trình, một loại nghiên cứu thường do các nhà nhân học thực hiện là một ví dụ tốt cho điều này. Một số nhà nhân học có thể muốn đối lập nghiên cứu chính sách với nghiên cứu chương trình. Trong bất cứ trường hợp nào, đây không phải là một nền tảng mới cho các nhà nhân học. Thật vậy, người ta có thể tranh luận là các nhu cầu nghiên cứu chính sách làm gia tăng sự phát triển của nhân học như là một ngành khoa học vào thế kỷ 19. Quan điểm này được thảo luận về lịch sử của phát triển của nhân 158 học ứng dụng. Nhân học như là một khoa học có tổ chức trong nhiều truyền thống quốc gia, là một chức năng của các nhu cầu nghiên cứu chính sách cùng với sự cai trị thuộc địa, cả bên trong và bên ngòai. Lúc đầu, điều này có hình thức là làm các dân tộc chí cơ bản ở những vùng xa lạ hay thực hiện các sửa chữa sự cố liên quan đến mối quan hệ liên văn hóa. Việc hình thành khoa nhân học thưở ban đầu ở các trường đại học lớn của Anh được dựa trên nhu cầu đào tạo các nhà cai trị thực dân. Dù có chiều sâu thời gian này nhưng kinh nghiệm của nhân học như là một khoa học chính sách thì khá hạn chế. Mãi đến những năm 1970 thì các nhà nhân học mới bắt đầu tham gia mạnh mẽ vào các nỗ lực nghiên cứu chính sách. Như đã nói việc tham gia này liên quan đến cả các yếu tố đẩy và kéo. Yếu tố đẩy là sự sụp đổ của thị trường việc làm hàn lâm. Lực kéo là sự gia tăng các nỗ lực nghiên cứu chính sách theo luật pháp liên bang. Yếu tố cuối này, dĩ nhiên, là quan trọng nhất ở Mỹ. Như là một hệ quả của chức năng nghiên cứu chính sách, các nhà nhân học, ở một mức độ nào đó đã trở thành những nhà làm chính sách. Chức năng này hiếm và rất ít khi được ghi chép lại. Một ví dụ thú vị đó là công trình của nhà nhân học Robert Texor làm việc trong Tổ chức Hòa Bình (Peace Corps). Textor tham gia vào sự phát triển của chính sách nhân sự gọi là trong-trên- và-ra (in-up-and-out) của Peace Corps vốn giới hạn thời gian làm việc trong Peace Corps để duy trì một tỷ lệ đổi mới cao hơn và duy trì cái có thể được gọi là “tuổi trẻ có tổ chức” (Textor 1966). Kinh nghiệm của riêng tôi trong quản lý phát triển bao gồm việc hình thành chính sách quy mô nhỏ để đáp lại nỗ lực phát triển cộng đồng do chính quyền bộ lạc Bản địa Mỹ thực hiện. Người ta không thể bỏ qua những trường hợp mà trong đó các nhà nhân học đã có các vị trí quản lý cao ở chính quyền bang và liên bang. Một số các ví dụ đáng chú ý là Philleo Nash người vừa là Ủy viên Hội đồng các việc liên quan đến người Da Đỏ trong Bộ Nội vụ của Mỹ và vừa là trung úy Thống đốc bang Wisconsin (Landman và Halpern 1989); Aguitte Beltran người làm Giám đốc Viện Da Dỏ Quốc gia của Mehicô; Jome Henyatta là Thủ tướng đầu tiên của Kenya. Trong tất cả các 159 trường hợp này, những người đã kể trên đều có liên quan sâu sắc đến việc hình thành chính sách. Dĩ nhiên, có một số các nhà nhân học ứng dụng am hiểu chống lại rất hùng hồn những tham gia như thế. Một ví dụ hay đó là Homer G. Barnett, người đã thực hiện một công trình ứng dụng rộng ở Thái Bình Dương sau Chíến tranh Thế giới lần II. Ông cho là tính hiệu quả của chúng ta như là các nhà nhân học ứng dụng sẽ bị giảm nếu chúng ta đảm nhiệm các chức năng quản lý. Trong bất cứ trường hợp nào, đa số các nhà nhân học tham gia trong lĩnh vực chính sách đều là ở vai trò các nhà nghiên cứu. Trong khuôn khổ này, họ được cho là hiệu quả nhất ở mức độ địa phương (Chamber 1977); hay, khi họ làm việc ở mức độ hình thành chính sách quốc gia, họ có vai trò tốt nhất trong các đội nghiên cứu đa ngành rộng lớn (Trend 1976). Cả Chambers và Trend dường như tranh luận từ cùng một nền tảng, đó là quan sát tham dự tòan diện truyền thống dựa trên phương pháp luận nghiên cứu vận hành tốt nhất trong các bối cảnh quy mô nhỏ hơn. Trong khi điều này có thể đúng thì cũng có cách thóat khỏi ảnh hưởng của sự kiềm chế. Một trong số đó là phải học hỏi các kỹ thuật nghiên cứu khác. Nghiên cứu chính sách không có một dạng duy nhất. Có rất nhiều loại. Chẳng hạn như, mỗi giai đọan trong quá trình chính sách đi liền với các nhu cầu nghiên cứu khác nhau. Có nhiều loại thực hành nghiên cứu chính sách hiện thời khác nhau nhìn nhận sự tham gia của các nghiên cứu nhân học. Các nhà nhân học đánh giá nghiên cứu, đánh giá các nhu cầu, đánh giá tác động xã hội, phân tích sự hoàn hảo xã hội, đánh giá tài nguyên văn hóa, cũng như các loại nghiên cứu chính sách khác. Ngòai nghiên cứu được thực hiện để ủng hộ cho sự phát triển, sự thực thi, và đánh giá các chính sách cụ thể, còn có nghiên cứu liên quan đến các lĩnh vực chung của quan tâm xã hội. Điều này có thể được đề cập đến như nghiên cứu chính sách thích hợp. Đề cập đến sự phân biệt này, có thể đề cập đến nhân học trong (in) chính sách, và nhân học về chính sách. Điều này theo sau một sự tương phản nguyên thủy do nhà xã hội học y học Robert Strauss đưa ra (1957), người đề cập đến các nhà nghiên cứu phục vụ trong chăm sóc y tế như 160 là đối chọi lại với các nhà nghiên cứu người nghiên cứu về chăm sóc y tế. Cái đầu tiên được đề cập đến như là xã hội học trong y học, và loại thứ hai là xã hội học về y học. Dewalt vận dụng sự phân biệt này trong phân tích của ông về nhân học nông nghiệp (1985). Tuy nhiên, nhận ra sự phân biệt giữa hai loại công việc thì rất quan trọng. Tất cả nhân học chính sách mà chúng ta đề cập đến ở đây là thuộc loại “nhân học trong chính sách”. Tất cả các lọai nhân học chính sách khác nhau này đại diện cho các lọai hoạt động nghiên cứu quan trọng đối với các nhà nhân học trong nhiều tình huống nghề nghiệp khác nhau. Ngòai ra, nếu người ta xem xét tất cả các mục đích khác nhau và các cơ chế tài trợ cho nghiên cứu do các nhà nhân học thực hiện, người ta nhận thấy là sự tương phản giữa nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu cơ bản sẽ giảm đi. Mặt khác, chúng ta có nghiên cứu được xác định rõ, mua và trả tiền bởi các khách hàng để đáp ứng một nhu cầu thực tiễn nào đó, và mặt khác, có nghiên cứu được lên kế hoạch và thực hiện bởi những nhà nghiên cứu chỉ do sự tò mò và cảm giác về hướng ngành khoa học. Cái tồn tại giữa những hình thức chính yếu này là một sản phẩm của một sự pha trộn thiên hướng con người và nhiều động lực khác. Chẳng hạn như, nhiều chương trình tài trợ nghiên cứu cơ bản sẽ tài trợ nghiên cứu cơ bản dưới dạng một hệ thống các ưu tiên xuất phát từ các câu hỏi chính sách chung. Nhưng các động lực kinh tế cụ thể này được đổi thành “các chủ đề nóng bỏng” và các khuynh hướng ngắn hạn trong việc chọn lựa chủ đề nghiên cứu. Trong các tình huống nhất định, nghiên cứu được làm vì các mục đích ứng dụng cụ thể có thể bắt đầu xuất hiện trong các ấn bản như thể đây là nghiên cứu cơ bản. Điều này lại ảnh hưởng đến việc chọn lựa chủ đề nghiên cứu nhưng theo cách khác. Điểm then chốt là sự tương phản giữa ứng dụng và cơ bản thì khá yếu. Ngòai ra, có nhiều dòng chảy giữ hai lĩnh vực. 2. Một số thực hành nghiên cứu chính sách hiện thời Các loại nghiên cứu chính sách được thảo luận ở đây đi từ các phương pháp nghiên cứu được tiêu chuẩn hóa hướng đến các vấn đề chính sách cụ thể, đến các định hướng nghiên cứu lớn và được khái quát hóa áp dụng trong nhiều tình huống đa dạng khác nhau. Đóng góp của các nhà nhân học cho sự phát triển 161 của các phương pháp và kỹ thuật được sử dụng đi từ những đóng góp rất to lớn đến những đóng góp nhỏ nhoi. Ngoại trừ một vài trường hợp, các nhà nhân học tham gia vào việc sử dụng những thực hành này cần biết các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội chung bên cạnh những phương pháp truyền thống hơn vốn gắn liền với nhân học. Như được đề cập về vấn đề đánh giá, người ta cần một phương pháp luận nghiên cứu tổng hợp mà trong đó nhà nghiên cứu có thể dựa vào hàng loạt các kỹ thuật khác nhau tùy theo vấn đề cần giải quyết. Để cung cấp cho bạn một cái nhìn sơ lược về các loại nghiên cứu chính sách khác nhau, chúng tôi sẽ cung cấp một danh sách dưới đây. Như đã đề cập ở trên, một số loại này có ý nghĩa kỹ thuật cụ thể, các loại khác thì tổng hợp và bao gồm một loạt các chức năng nghiên cứu. Đánh giá Trong việc đánh giá, nghiên cứu được thực hiện với mục đích xác định giá trị của một cái gì đó, chẳng hạn như dự án, chương trình, hay hệ thống các tài liệu giảng dạy. Quá trình có thể gồm có một loạt các thiết kế nghiên cứu từ các thí nghiệm có cấu trúc chặt chẽ với các nhóm đối chứng đến các dân tộc chí miêu tả. Đánh giá có thể phục vụ cho nhiều mục đích. Nhiều đánh giá được thực hiện để xác định các ảnh hưởng của một dự án hay chương trình cụ thể. Đánh giá cũng còn có thể được thực hiện để xem xét liệu một hành động nào đó có diễn ra như được mong đợi hay không, với mục đích nâng cao nó. Những người đánh giá có thể sử dụng một loạt các kỹ thuật thu thập dữ liệu. Đánh giá có thể được sử dụng để thử tính khả thi của việc ứng dụng các cải tiến rộng rãi hơn. Nghiên cứu có thể được sử dụng để đánh giá các khả năng khác nhau trong quá trình thiết kế. Đánh giá là một trong những loại nghiên cứu chính sách quan trọng nhất do các nhà nhân học thực hiện. Hiện thời có nhiều quan tâm về việc sử dụng dân tộc chí trong đánh giá. Việc sử dụng cách tiếp cận này, nhiệm vụ trở thành một nhiệm vụ của việc tìm ra những gì đang diễn ra trong một tình huống cụ thể thay vì việc quyết định mang tính kỹ thuật về các ảnh hưởng. Chương về đánh giá gồm có các nghiên cứu trường hợp về các đánh giá có sự tham gia của các nhà nhân học. Các nhà 162 nhân học làm việc về đánh giá thường sử dụng các phương pháp nghiên cứu trường hợp. Trong một số trường hợp, họ đóng vai trò như là những nhà dân tộc chí nghiên cứu các dự án quy mô lớn như một phần của các đội đa ngành. Đánh giá tác động xã hội Trong đánh giá tác động xã hội, ng ... rên mạng sử dụng một loạt các từ nhận diện. Một sự phát triển gần đây trong việc phân phối những tài liệu này là việc sử dụng những định dạng có thể tải xuống qua mạng và những sưu tập theo chủ đề của các báo cáo có sẵn với giá rẻ trên CD-ROM. Chẳng hạn như, dự án Jamestown Rediscovery ở Virginia (www.jamestownrediscovery.org) hiện giờ cung cấp những báo cáo khai quật kỹ thuật của họ ở dạng những tập tin có thể tải xuống mà người sử dụng có thể in ra được. Bộ Vận tải Virginia cũng vừa mới phát hành một sê-ri dựa trên CD-ROM mới này được trình bày theo chủ đề những báo cáo CRM được nhóm lại cho sự phân phối rộng rãi, sinh lãi. Có khả năng là nhiều vấn đề về việc sử dụng “tài liệu xám” sẽ được giải quyết với việc áp dụng kỹ thuật số và địên tử. 234 Chúng tôi cũng đã bao gồm ba trường hợp để minh họa những khía cạnh của công việc chuyên môn của những nhà nhân học tham gia vào CRM. Trường hợp thứ nhất minh họa một dự án CRM được thực hiện để đáp lại việc xây dựng một lô đậu xe búyt. Dự án này đi kèm với một miêu tả về Dự án Làm Dịu Khảo cổ học Viện trợ Liên bang giữa các Tiểu bang 270. Dự án này được chọn lọc do nó rất lớn, kéo dài, và thường được trích dẫn như một dự án điển hình. Hai trường hợp này được bổ sung bằng một công trìh CRM được những nhà nhân học văn hóa thực hiện ở Tây nam nước Mỹ. Ví dụ 1: Dự án lô đậu xe buýt pentran, một dự án điển hình mục 106 CRM: một nghiên cứu trường hợp Dự án Lô Đậu xe Búyt Pentran bắt đầy như đa số những dự án Mục 106 với một yêu cầu từ Bộ Vận Tải Virginia (VDOT) (đại diện cho Thành phố Hampton) đối với Bộ Tài Nguyên Lịch sử Virginia (VDHR) (Virginia SHPO) để xem xét việc thực hiện. Do vị trí của dự án nằm trong một khu vực của thành phố Hampton được biết đến đã được sử dụng từ cư trú ban đầu ở thời tiền sử và cho đến hiện nay, VDHR yêu cầu một cuộc khảo sát giai đoạn I về tài sản rộng gần một mẫu Anh. Khảo sát bước đầu này do một đội ngũ những nhà khảo cổ học ở Văn Phòng Quận Suffolk của VDOT thực hiện. Khảo sát Giai đoạn I bao gồm một sê-ri 17 hố thử đào bằng xẻng (đo đường kính từ 25-30 cm và đào đến tầng đất cái khô cằn) trải rộng khắp khu vực. Những thử nghiệm này tìm được 1.999 mẫu vật, 50 (2.5%) trong số chúng có niên đại từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19; những mẫu vật còn lại có liên quan đến một nơi để đồ phế thải xe ô tô trước đó tại địa điểm. Sự hiện diện của một lượng ít những mẫu vật của thế kỷ 17, gốm thô, chai thủy tinh màu xanh lá cây đậm, những cái đinh được rèn, và những cái tẩu thuốc lá bằng đất sét màu trắng và đỏ, cùng với một lượng lớn những địa điểm giai đoạn cư trú sớm được xác định trước đây ở Hampton, đã cho nhà khảo cổ học VDOT thấy tiềm năng đây là một địa điểm cư trú sớm quan trọng trên địa bàn. Vì thế, địa điểm được xem xét tính khả năng tiềm ẩn cho một đề cử vào Sổ Đăng ký Quốc gia và khuyến cáo nên tránh một đánh giá Giai đoạn II (Stuck và Downing 1995). 235 Dự án đánh giá Giai đoạn II được VDOT ký hợp đồng với Trung tâm Nghiên cứu Khảo cổ William & Mary. Điền dã bao gồm những hố thử đào bằng xẻng, khai quật đơn vị thử, và quét bằng máy khu vực đã xới hay lớp trên của những lớp đất tạp. Công việc này xác định được trên 1.000 mẫu vật và 40 đặc điểm văn hóa, gồm có một hố hầm chứa, hố trụ cấu trúc, những rãnh hàng rào hẹp, và rác thải kết lại thành mảng có niên đại nửa sau thế kỷ 17. Nghiên cứu lịch sử về tài sản (khu vực) cho thấy là địa điểm có thể là một đồn điền thương mại của cư dân Hampton ban đầu William Claiborne và Thomas Jarvis. Điền dã Giai đoạn II kết luận với một khuyến nghị là địa điểm nên được xem xét đủ khả năng vào Sổ Đăng ký Quốc gia do tiềm năng của nó cung cấp những thông tin quý báu về đời sống thuở ban đầu ở một đồn điền Hampton và địa điểm này thích hợp như thế nào với bối cảnh kinh tế văn hóa xung quanh (Stuck và Downing 1995). Với địa điểm chiếm đa số khỏanh đất dự án, có rất ít hy vọng sẽ thiết kế lại dự án để tránh tổn hại đến tài nguyên khảo cổ. Vì thế một kế họach làm dịu phục hồi dữ liệu Bước III được chuẩn bị vốn chi tiết thiết kế và mục tiêu nghiên cứu, bao gồm phương pháp luận cho sự khai quật thêm, nghiên cứu lịch sử, phân tích và những câu hỏi nghiên cứu. Khai quật tiếp theo dẫn đến một bộ sưu tập của hơn 17.000 mẫu vật và khai quật hàng trăm đặc điểm văn hóa có niên đại thế kỷ 17, bao gồm một căn nhà ở đóng trụ dưới nền đất, một chuồng ngựa đóng trụ dưới nền đất, một vài công trình phụ nhỏ hơn, một cái giếng, và vô số mảnh đất có rào vây quanh (Higgins, Howning, và Linebaugh 1999). Sự phân tích bao gồm công trình của những nhà sử học, những chuyên gia mẫu vật và những nhà phân tích động vật để nghiên cứu hơn 6.000 xương động vật để xác định đồ ăn hàng ngày, và vân vân; và những nhà chuyên nghiên cứu thực vật khảo cổ học để nghiên cứu những dấu vết thực vật còn lại (hạt và lá) để tái dựng lại môi trường xung quanh đồn điền. Nghiên cứu đa ngành này cung cấp một sự hiểu biết chi tiết về đồn điền của Thomas Jarvis, từ khoảng năm 1661 đến khoảng năm 1700, và địa điểm của nó trong vòng khu định cư đang hình thành của Kecoughtan (sau này là thành 236 phố Hampton). Một khía cạnh đặc biệt quan trọng khác của dự án là cơ hội cho một thành phần khảo cổ học công khai. Một căn nhà mở rất thành công được tổ chức gần cuối nơi thực địa, cho phép công chúng (hơn 500 khách) đến tham quan địa điểm, xem những mẫu vật, và nói chuyện với những nhà khảo cổ. Loại diễn giải và tham dự công chúng loại này hiện nay được hợp nhất vào đa số những dự án làm dịu to lớn, khi những nhà điều chỉnh và những nhà khảo cổ học bắt đầu trân trọng tầm quan trọng của những người tham gia bao gồm trong dự án, dặc biệt thông qua những cơ hội giáo dục. Ví dụ 2: Dự án Fai – 270 một dự án làm dịu quy mô lớn Dự án Làm dịu Khảo cổ học Viện Trợ Liên bang Liên Tiểu bang – 270 là một sự hợp tác giựa Khoa Vận tải Illinois (IDOT) và những nhà khảo cổ học Đại học Illinois. Dự án, do Charles J. Bareis và Hames W. Porter của Đại học Illinois ở Urbana-Champaign điều hành và do nhà khảo cổ học Bennie C. Keel của Bộ Nội Vụ Mỹ giám sát, thì quan trọng do cả tầm quan trọng và thời gian thực hiện của nó. Đây là một dự án CRM lớn và rất thành công. Dự án làm dịu này hưởng lợi từ một lịch sử cộng tác lâu dài giữa Khoa Vận tải Illinois và các kỹ sư của khoa và cộng đồng khảo cổ của Illinois. Dự án được tập trung vào làm dịu tác động đối với tài nguyên khảo cổ của việc xây dựng một đường cao tốc 6 làn xe mà sẽ đi ngang qua khoảng 1.000 mẫu Anh đất ở vùng phía nam Illinois. Dự án được đặt ở American Bottom, một phần của vùng đồng bằng dòng Sông Mississippi nằm ở ba hạt Illinois vắt ngang Mississippi từ St.Louis trung tâm. Vùng đồng bằng phù sa này là vùng đất rất màu mỡ, và sự màu mỡ này có liên quan trực tiếp đến rất nhiều di tích khảo cổ mà vùng đất có. Một ảnh hưởng của số lượng di tích này đó là rất khó thay đổi địa điểm của con đường cao tốc bên phải đường để tránh những di tích quan trọng; gần như bất cứ địa điểm nào đều sẽ tổn hại tài nguyên văn hóa. Di tích nổi tiếng nhất ở American Bottom là Cahokia Mounds, một di tích Mississippi có niên đại từ 800 đến 1400 sau công nguyên. Di tích này bao gồm một đồi đất lớn và một khu vực cư trú xung quanh được cho là có một dân cư khỏang 20.000 đến 25.000. Ngày này, nó được Công Viên Quốc gia Cahokia Mounds bao quanh, nằm vài dặm bên kia Sông 237 Mississippi từ khu phố St.Loius. Nghiên cứu khảo cổ quan trọng đã được thực hiện ở Cahokia từ những năm 1920. Dự án FAI-270 bắt đầu năm 1975 với một khảo sát thăm dò về con đường bên phải con đường do đội ngũ IDOT thực hiện. Một thành tố quan trọng của nghiên cứu là sự phát triển của một thiết kế hay kế hoạch nghiên cứu vốn chỉ rõ phương pháp luận phân tích và chọn mẫu và tóm tắt những câu hỏi cơ bản. Thiết kế nghiên cứu cho phép dự án để đưa ra những câu hỏi khoa học “để trả lời những câu hỏi địa phương và khu vực như được nhận thức bởi những người mà biết rõ về khảo cổ học của vùng American Bottom” (Barei và Porter 1984:3). Cuối cùng có gần 100 di tích khảo cổ được khai quật và lưu giữ. Khỏang hai phần ba số di tích đó nằm gần đường cao tốc chính và phần còn lại nằm ở những vùng dốc dứng gần đó. Ở đây, những cuộc khai quật được thực hiện để làm dịu những tác động của việc tháo dỡ hay đặt nền đường được sử dụng cho việc xây dựng nền đường. Kết quả là một cơ sở dữ liệu khổng lồ được đặt ở Đại học Illinois. Ví dụ 3: Dự án hành lang sông Colorado Paiute phía nam, miêu tả dân t6ọc học ở CRM: một nghiên cứu trường hợp Mặc dù với ít nhiều tần suất hơn trong khảo cổ học hay kiến trúc, miêu tả dân tộc học cũng được sử dụng trong bối cảnh đánh giá tài nguyên văn hóa. Một sê-ri những dự án miêu tả dân tộc học có tương quan với nhau được khởi xướng vào năm 1992 để bắt đầu một quá trình tư vấn chi tiết với cư dân Phía nam Paiute, liên quan đến quản lý tài nguyên văn hóa trong lãnh thổ truyền thống của họ. Bước đầu tiên của dự án, kết thúc năm 1994, nghiên cứu tài nguyên văn hóa trong khu vực hành lang Sông Colorado. Báo cáo đầu tiên của dự án miêu tả những mối quan tâm dân tộc học về cư dân Phía Nam Paiute, và thứ hai, được trình năm 1995, miêu tả tác động của Đập Glen Canyon và những thay đổi nó gây ra cho Sông Colarado. Khu vực dự án năm 1997 là Công Viên Quốc gia Zion, Utah, và Đài Tưởng niệm Quốc gia Pipe Spring, Arizona. Mỗi dự án sử dụng những phỏng vấn tại chỗ những cư dân lớn tuổi người Paiute, những cuộc phỏng vấn người Paiute lớn tuổi được lưu trữ trước đây, và những tài liệu tổng 238 quát và luật pháp khác về vấn đề này và những chủ đề liên quan. Những dự án này bao gồm sự điều tra của khảo cổ dân tộc học, thực vật dân tộc học, động vật dân tộc học, nghệ thuật đá, những tài sản văn hóa truyền thống (thường được những người Da đỏ biết đến như những nơi quyền lực), địa lý dân tộc học, và phong cảnh văn hóa. Một nhóm nghiên cứu liên ngành do Richard W. Stoffle dẫn đầu, được tập hợp để nói lên sự liên quan của những khía cạnh đa dạng này. Quá trình cho thấy sự hợp nhất rộng rãi, Stoffle đã viết, “Lý tưởng mà nói, quá trình nghiên cứu đánh giá tài nguyên văn hóa đòi hỏinhững nghiên cứu riêng rẽ về những lĩnh vực văn hóa đóng khung cụ thể, hay những loại kiến thức liên quan đến những lĩnh vực nào đó chẳng hạn như thực vật, động vật, nước, lịch sử văn hóa, và đại loại như thế: (Stoffle, Austin, Halmo, và Phillips 1997:93). Một phần của dự án bao gồm công việc với một chươgn trình giáo dục môi trường cho thanh niên Southern Paiute vốn tập trung vào “sự hợp nhất của những khái niệm thông qua những hoạt động trải nghiệm, trình bày, và thảo luận” (Stoffle, Austin, Fulfrost, Phillips, và Drye 1995:142). Dự án 1997 cũng nghiên cứu lịch sử luật pháp của cả hai địa điểm và tìm thấy là “nhân viên sở công viên và những người đại diện của bộ lạc đã thể hiện một sự sẵn sang để di chuyển ra ngòai sự tuân thủ luật pháp tối thiểu để thiết lập một sự tham gia có ý nghĩa cho sự diễn dịch và bảo tồn tài nguyên văn hóa” (Stoffle và những người khác. 1997:67). Những thông tin từ địa điểm này sang địa điểm khác được bao gồm trong mỗi báo cáo cùng với những khuyến nghị. Dự án kêu gọi sự gắn bó dài hạn cho sự kết hợp kiến thức và những kỹ năng của cả Sở Công viên Quốc gia và những bộ lạc Southern Paiute. Tóm tắt Quản lý tài nguyên văn hóa là một khu vực khổng lồ của thực hành chuyên môn do luật và những giá trị quốc gia định hình. Từ sự xuất hiện của khu vực thực hành này đã có một sự gia tăng không ngừng về cơ hội việc làm ở mọi mức độ bằng cấp (chẳng hạn như cử nhân, thạc sĩ, và tiến sĩ). Đây là một trong số ít những khu vực nơi bằng cấp nhân học thể hiện một năng lực kỹ thuật trong ngành Khảo cổ học được thực hiện cho mục đích quản lý tài nguyên văn hóa 239 đóng vai trò nổi trội phân ngành theo số lựơng người tham gia và số lượng nghiên cứu thực hiện. Đa số khảo cổ được thực hiện ở Mỹ là cho mục đích quản lý tài nguyên văn hóa, và một phần lớn của điều này được thực hiện bởi những công ty tư vấn tư nhân. Nhu cầu của tất cả những người này đã khuyến khích sự phát triển của chương trình bằng cấp và đào tạo đặc biệt. Những người làm việc trong lĩnh vực này trải nghiệm sự giao lưu hàng gành của quyết định chính sách và nhưng huấn luyện chuyên môn của họ. Trong khi đây đa phần là lĩnh vực của khảo cổ, những nhà nhân học văn hòa cũng tham gia vào CRM. Ngoài ra, có những tương đồng thực tiễn và khái niệm rõ và sự tương tác với lĩnh vực của đánh giá tác động xã hội. 240 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Satish John Van Willigen. Applied Anthropology. Third Edition, Bergin & Garvey, First published in 2002 2.Applied Anthropology, Domains of Application, Editied by Kedia and John Van Willigen. Praeger. First Published in 2005. 3.Applying Anthropology. An introductory Reader. Sixth Edition. Aron Podolefsky, Peter J.Brown. Mc. Graw Hill. Copyright 2001 4.Vũ Hồng Anh. Nhân học phát triển tại Mỹ. Tạp chí dân tộc học số 2/2007 5.Barbara Rylko- Bauer, Merrill Singer, John Van Willgen. Nhận định lại nhân học ứng dụng: quá khứ, hiện tại và tương lai. Người dịch: PGS.TS Nguyễn Xuân Thơm. Nhà nhân học Mỹ, tập 108, số 1, tr, 178-190, ISSN 002-7294, Bản dịch điện tử ISSN: 1548- 1433, bản quyền 2008 bởi Hiệp hội nhân học Hoa Kỳ. Quyền và phép xuất bản trực tuyến tại Vebsite: httt://www.ucpress.edu/journals/right.html 6.Paul Sillitoe. Trường đại học Durham. Các nhà nhân học chỉ cần ứng dụng: các thách thức của nhân học ứng dụng. tạp chí Viện Hoàng gia Anh (N.S) 13, 147-165. Bản quyền Viện Nhân học Hoàng gia Anh 2007. Người dịch PGS.TS Nguyễn Xuân Thơm. 7.Zenia Kotnal. Trường đại học Michigan, Hoa Kỳ. Mối liên hệ giữa lý thuyết và thực hành phát triển cộng đồng: đó là trực giác hay điều không thích hợp? Nghiên cứu trường hợp New Britain, Conecticut. Bài đăng trên “ Tạp chí phát triển cộng đồng”, tập 41, số 1, tháng 1/2006. 8.Đồng chủ biên Ngô Văn Lệ, Nguyễn Minh Hòa. Đồng tham gia trong giảm nghèo đô thị. Nxb, KHXh, Hà Nội, 2003. 9.Đồng chủ biên Phạm Xuân Nam – Peter Boothroyd. Về đánh giá chính sách và hoạch định chính sách giảm nghèo. (Kỷ yếu Hội thảo). Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội, 2003. 10.Chương trình hợp tác Việt nam – Canada (LPRV). Cùng tham gia giảm nghèo. Hà Nội tháng 2/2002 Đại học Thái nguyên. Trung tâm nghiên cứu Giảm 241 nghèo. Giáo trình xây dựng và quản lý dự án có sự cùng tham gia. Thái nguyên, thnág 9/2001. 11.Chương trình Việt nam- Canada (LPRV). Một số ví dụ chọn lọc về nghiên cứu tham dự. 12. Đại học Đà Lạt. Trung tâm nghiên cứu giàm nghèo. Giáo trình tóm tắt Đánh giá chính sách đồng tham gia. Đà Lạt, tháng 12/2000. 13.Sussan B. Rifkin & Pat Pridmore. Các đối tác cộng sự trong lập kế hoạch. Thông tin, sự tham gia của người dân và tạo quyền, nâng cao vị thế. Macmillan 14.Trường Đại học Vinh. Trung tâm nghiên cứu giảm nghèo. Nghiên cứu đồng tham gia trong công tác giảm nghèo và phát triển nông thôn. Vinh, 8/2001.
File đính kèm:
- bai_giang_nhan_hoc_ung_dung_nguyen_van_tiep_phan_2.pdf