Bài giảng Kết cấu động cơ đốt trong - Chương 4: Hệ thống bôi trơn

CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN

 4.1 NHIỆM VỤ CỦA HỆ THỐNG BÔI TRƠN VÀ CÔNG DỤNG CỦA DẦU NHỜN:

- Hệ thống bôi trơn của động cơ đốt

trong có nhiệm vụ đưa dầu đến các mặt ma sát,

đồng thời lọc sạch những tạp chất lẫn trong dầu

nhờn khi dầu nhờn tẩy rửa các mặt ma sát này

và làm mát dầu nhờn để đảm bảo tính năng hoá

lý của nó.

- Hệ thống bôi trơn của các loại động cơ

đốt trong đều dùng dầu nhờn để làm giảm ma

sát của ổ trục, đưa nhiệt lượng do ma sát sinh ra

ra khỏi ổ trục. Ngoài ra dầu nhờn còn bảo vệ

các bề mặt của các chi tiết trong động cơ không

bị gỉ (oxyt hoá bề mặt)

 

pdf 32 trang phuongnguyen 6940
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Kết cấu động cơ đốt trong - Chương 4: Hệ thống bôi trơn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Kết cấu động cơ đốt trong - Chương 4: Hệ thống bôi trơn

Bài giảng Kết cấu động cơ đốt trong - Chương 4: Hệ thống bôi trơn
1CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
Lọc nhớt thô Cạcte nhớt
Cạcte nhớt
Sên cam
Nhông cốt 
máy
Bơm nhớt
Đường Nhớt 
chính
Thân máy
Trục cam
Con đội
Thanh truyền Piston
Trục khuỷu
Đũa đẩy
Lọc nhớt tinh
2CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
- Hệ thống bôi trơn của động cơ đốt
trong có nhiệm vụ đưa dầu đến các mặt ma sát,
đồng thời lọc sạch những tạp chấùt lẫn trong dầu
nhờn khi dầu nhờn tẩy rửa các mặt ma sát này
và làm mát dầu nhờn để đảm bảo tính năng hoá
lý của nó.
- Hệ thống bôi trơn của các loại động cơ
đốt trong đều dùng dầu nhờn để làm giảm ma
sát của ổ trục, đưa nhiệt lượng do ma sát sinh ra
ra khỏi ổ trục. Ngoài ra dầu nhờn còn bảo vệ
các bề mặt của các chi tiết trong động cơ không
bị gỉ (oxyt hoá bề mặt).
- Dầu bôi trơn (dầu nhờn) dùng trong
các hệ thống bôi trơn có rất nhiều loại. Lựa chọn
sử dụng loại dầu nhờn nào tuỳ thuộc vào mức
độ phụ tải của ổ trục tính năng tốc độ và mức
độ cường hoá của động cơ. Nhưng nói chung,
dầu nhờn trong động cơ đốt trong có 4 công
dụng cơ bản sau đây:
4.1 NHIỆM VỤ CỦA HỆ THỐNG BÔI TRƠN VÀ CÔNG DỤNG CỦA DẦU NHỜN:
3CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
1- Bôi trơn các bề mặt ma sát, làm giảm tổn thất ma sát: Trong trường
hợp này dầu nhờn đóng vai trò chất liệu trung gian đệm vào giữa các bề mặt ma
sát có chuyển động tương đối với nhau khiến cho các mặt ma sát không trực tiếp
tiếp xúc với nhau. Chính căn cứ vào tính chất này mà người ta phân loại ma sát
trượt của ổ trục thành 4 loại:
-Ma sát khô xảy ra khi giữa hai bề mặt ma sát hoàn toàn không có dầu
nhờn, các mặt ma sát trực tiếp tiếp xúc với nhau.
-Ma sát ướt xảy ra khi giữa hai bề mặt ma sa(t có một lớp dầu bôi trơn
khiến trong quá trình chuyển động các mặt ma sát hoàn toàn không tiếp xúc trực
tiếp với nhau.
-Ma sát nửa khô hoặc nửa ướt xảy ra khi màng dầu nhờn ngăn cách bề
mặt ma sát bị phá hoại. Mặt ma sát tiếp xúc cục bộ ở những vùng màng dầu
nhờn bị phá hoại.
-Ma sát tới hạn: là trạng thái trung gian giữa ma sát khô và ma sát ướt.
Khi xảy ra ma sát tới hạn, trên mặt ma sát tồn tại một màng dầu rất mỏng, màng
dầu này chịu tác dụng của lực phân tử của bề mặt kim loại nên bám chặt trên bề
mặt kim loại và mất khả năng lưu động. Vì vậy trong trường hợp này, lực ma sát
quyết định bởi quá trình sản sinh do kết quả của lực tương tác giữa bề mặt ma sát
và màng dầu nhờn.
4CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
Vật liệu ổ trục Hệ số ma sát
Ma sát khô Ma sát ướt
Gang với gang 0,15 0,07 - 0,12
Gang với đồng 0,15 - 0,2 0,07 - 0,15
Thép với thép 0,15 0,05 - 0,1
Thép với đồng 0,15 0,01 - 0,15
Thép với Babit 0,25 - 0,28 0,05 - 0,1
Thép với Nhôm 0,20 0,05 - 0,1
5CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
2 - Làm mát ổ trục: Trong quá trình làm việc, công do tổn
thất ma sát chuyển biến thành nhiệt năng làm nhiệt độ của ổ trục
tăng lên rất cao. Nếu không có dầu nhờn, các ma sát sẽ bị quá
nóng rồi hư hỏng. Vì vậy, dầu nhờn trong trường hợp này đãû đóng
vai trò chất lỏng làm mặt ổ trục, tải nhiệt lượng do ma sát sinh ra
khỏi ổ trục, đảm bảo nhiệt độ làm việc bình thường của ổ trục.
Cần phải lưu ý rằng nhiệt hoá hơi của dầu nhờn chỉ vào
khoảng 40  70kcal/kg (trong khi đó nhiệt hoá hơi của nước là
590kcal/kg) và khả năng dẫn nhiệt của dầu nhờn cũng rất nhỏ
(0,0005 cal/0C.g.s; trong khi ấy, của nước là 0,0015cal/0C.g.s).
Nhưng nước không thể thay thế được chức năng của dầu nhờn. Vì
vậy, để dầu nhờn phát huy được tác dụng làm mát các mặt ma sát,
bơm dầu nhờn của hệ thống bôi trơn phải cung cấp cho các mặt ma
sát một lượng dầu khá lớn.
6CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
3-Tẩy rửa mặt ma sát: Trong quá trình làm việc, các mặt ma
sát cọ sát với nhau gây nên mài mòn mạt kim loại rơi ra bám trên mặt
ma sát. Do có dầu nhờn chảy qua mặt ma sát nên nó cuốn theo các
tạp chất trên mặt ma sát; vì vậy đảm bảo mặt ma sát luôn luôn sạch,
tránh được hiện tượng mài mòn do tạp chất cơ học.
4-Bao kín khe hở
: giữa pittông với xilanh,
giữa xecmăng với pittông
v.v khiến cho khả năng
lọt khí qua các khe hở
này giảm đi.
* Bốn công dụng
kể trên của dầu nhờn
phụ thuộc rất nhiều vào
tính năng hoá lý của dầu
nhờn, nhất là phụ thuộc
vào độ nhớt của nó.
7CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
4.2 CÁC PHƯƠNG ÁN BÔI TRƠN THƯỜNG DÙNG TRONG ĐCĐT
4.2.1-Bôi trơn bằng phương pháp vung té dầu.
- Phương án bôi trơn này thường dùng
trong các động cơ một xylanh, kiểu xylanh nằm
ngang có kết cấu rất đơn giản như động cơ T62,
W1105 v.v hoặc trong một vài loại động cơ một
xylanh kiểu đứng kết hợp bôi trơn vung té dầu với
bôi trơn bằng cách nhỏ dầu như động cơ Bécna,
Slavia kiểu cũ v.v
- Nguyên lý làm việc cụ thể như sau: Dầu
nhờn chứa trong cácte được thìa múc dầu lắp trên
đầu to thanh truyền múc hắt tung lên. Mỗi một
vòng quay của trục khuỷu thìa hắt dầu múc dầu
một lần. Các hạt dầu vung té bên trong không
gian của cácte sẽ rơi tự do xuống các mặt ma sát
của ổ trục. Để đảm bảo cho các ổ trục không bị
thiếu dầu, trên các vách ngăn bên trên ổ trục
thường có các gân hứng dầu.
8CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
- Hầu hết các động cơ đốt trong ngày nay đều dùng phương
án bôi trơn cưỡng bức: Dầu nhờn trong hệ thống bôi trơn được bơm
dầu đẩy đến các bề mặt ma sát dưới một áp suất nhất định, do đó
hoàn toàn có thể đảm bảo yêu cầu bôi trơn, làm mát và tẩy rửa mặt
ma sát của ổ trục.
- Hệ thống bôi trơn cưỡng bức của động cơ đốt trong thường
bao gồm các bộ phận cơ bản sau đây: thùng chứa dầu hoặc cácte,
bơm dầu nhờn, bầu lọc thô và lọc tinh dầu nhờn, két làm mát dầu
nhờn, các đường ống dẫn dầu, đồng hồ báo áp suất và đồng hồ báo
nhiệt độ dầu nhờn.
- Tuỳ theo vị trí chứa dầu nhờn, hệ thống bôi trơn cưỡng bức
phân thành hai loại: hệ thống bôi trơn cácte ướt (dầu chứa trong
cácte) và hệ thống bôi trơn cácte khô (dầu chứa trong thùng dầu bên
ngoài cácte). Căn cứ vào hình thức lọc và hệ thống bôi trơn cưỡng
bức lại phân thành hai loại: hệ thống bôi trơn dùng lọc thấm và hệ
thống bôi trơn dùng lọc ly tâm (toàn phần và không toàn phần).
4.2.2-Phương án bôi trơn cưỡng bức.
9CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
4.2.2.1 Nguyên lý làm việc của hệ thống bôi trơn cưỡng bức cácte ướt
- Dầu nhờn chứa trong cácte được bơm dầu hút qua phao hút (vị trí của
phao hút bao giờ cũng nằm lập lờ ở mặt thoáng của dầu nhờn để hút được dầu
sách và không có bọt khí) đẩy qua lọc thô
Ở đây dầu được lọc sạch
các tạp chất cơ học có cỡ hạt lớn,
sau đó dầu nhờn được đẩy vào
đường dầu nhờn chính để chảy đến
các ổ trục khuỷu; ổ trục cam v.v
Đường dầu trong trục khuỷu đưa
dầu lên bôi trơn ổ chốt (ổ dầu to
thanh truyền) rồi theo đường dầu
trên thanh truyền lên bôi trơn chốt
pittông. Nếu trên thanh truyền
không có đường dầu thì đầu nhỏ
thanh truyền phải có lỗ hứng dầu.
Trên đường dầu chính còn có các
đường dầu đưa dầu đi bôi trơn cơ
cấu phối khí v.v .
10
CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
- Khi nhiệt độ của dầu lên cao quá 800C, do độ nhớt giảm sút, van
điều khiển sẽ mở để dầu nhờn đi qua két làm mát. Khi bầu lọc thô bị bí tắc,
van an toàn được dầu nhờn đẩy mở ra, dầu sẽ không qua lọc thô mà lên thẳng
đường dầu chính. Van an toàn đảm bảo áp suất của dầu bôi trơn của toàn hệ
thống có trị số không đổi.
- Ngoài ra, để
bôi trơn bề mặt làm
việc của xylanh, pittông
v.v ta lợi dụng dầu
vung ra khỏi ổ đầu to
thanh truyền trong quá
trình làm việc. Ở một
vài loại động cơ, trên
đầu to thanh truyền
khoan một lỗ nhỏ để
phun dầu về phía trục
cam, cải thiện điều kiện
bôi trơn cho trục cam
và cho xylanh.
11
CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
4.2.2.2 Nguyên lý làm việc của hệ thống bôi trơn cưỡng bức cácte khô.
Sơ đồ hệ thống bôi trơn cưỡng bức cạcte khô
- Sự khác nhau của hệ thống bôi trơn cácte khô so với hệ thống bôi
trơn cácte ướt thể hiện ở chỗ hệ thống bôi trơn cácte khô dùng thêm hai bơm
dầu phụ 15 để hút hết dầu trong cácte về thùng dưới 14, sau đó bơm 2 hút dầu
từ thùng chứa đi bôi trơn.
12
CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
Sơ đồ bố trí bơm tay và bơm điện
- Do dầu nhờn được chứa trong thùng dầu ngoài cácte nên động cơ có
thể làm việc ở độ nghiêng lớn mà không sợ thiếu dầu như loại cácte ướt (ở loại
này khi động cơ làm việc ở độ nghiêng lớn, dầu nhờn dồn về một phía khiến
phao hút dầu bị hẫng). Vì vậy các loại động cơ điêzen dùng trên máy ủi đất, xe
tăng, máy kéo, tàu thuỷ v.v thường hay dùng hệ thống bôi trơn cácte khô.
- Van d trên hệ thống sẽ đóng lại khi nhiệt độ của dầu cao. Aùp suất
đóng mở van thường điều chỉnh vào khoảng 0,15-0,2MN/m2 (1,5-2kG/cm2)
13
CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
- Trong một số động cơ tĩnh tại và tàu thuỷ, trên hệ thống bôi
trơn còn bố trí bơm tay hoặc bơm điện để cung cấp dầu nhờn đến các
mặt ma sát và điền đầy các đường ống dẫn trước khi khởi động động
cơ; sơ đồ bố trí bơm tay hoặc bơm điện giới thiệu trên hình bên. Ngoài
ra để đảm bảo bôi trơn cho mặt làm việc của xylanh, hệ thống bôi trơn
của các loại động cơ này còn thường van phân phối để cấp dầu nhờn
vào một số điểm chung quanh xylanh như hình. Lỗ dầu thường khoan
trên lót xylanh như hình.
- Đưa dầu lên bôi trơn cơ cấu phối khí của động cơ ôtô máy
kéo thường thiết kế theo phương án giới thiệu trên hình 5.5. Dầu nhờn
theo đường dầu khoan trên thân máy lên đũa đẩy rồi vào đòn bẩy rồi
vào trục đòn bẩy sau đó theo các đường dầu khoan trên đòn bẩy phun
về phía lò xo xupap và trở về cạc te.
- Ưu điểm lớn nhất của các phương án bôi trơn cưỡng bức là
đảm bảo bôi trơn tốt các ổ trục do đó giảm được mài mòn và tổn thất
ma sát, tăng tuổi thọ cho động cơ. Tuy vậy, nhược điểm cơ bản của hệ
thống bôi trơn cưỡng bức là kết cấu của hệ thống rất phức tạp.
14
CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
15
CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
4.2.3 Bôi trơn bằng cách pha dầu nhờn vào nhiên liệu.
- Cách bôi trơn này chỉ được dùng để bôi trơn các chi tiết máy
của động cơ xăng hai kỳ cỡ nhỏ, làm mát bằng không khí hoặc bằng
nước. Dầu nhờn được pha vào xăng theo tỷ lệ 1/20  1/25 thể tích.
Một số động cơ cỡ nhỏ của Đức, Tiệp thường pha dầu nhờn với tỷ lệ
ít hơn, thường vào khoảng 1/30  1/33. Hỗn hợp của dầu nhờn và
xăng sau khi qua bộ chế hoà khí được xé thành các hạt nhỏ, cùng với
không khí nạp tạo thành khí hỗn hợp. Khí hỗn hợp này được nạp vào
cácte của động cơ rồi theo lỗ quét đi vào xylanh. Trong quá trình này,
các hạt dầu nhờn lẫn trong khí hỗn hợp ngưng đọng bám lên bề mặt
các chi tiết máy để bôi trơn các mặt ma sát. Cách bôi trơn này thực tế
không cần “hệ thống bôi trơn” thực hiện việc bôi trơn các chi tiết máy
rất đơn giản, dễ dàng nhưng do dầu nhờn theo khí hỗn hợp vào
buồng cháy nên dễ tạo thành muội than bám trên đỉnh pittông. Pha
càng nhiều dầu nhờn, trong buồng cháy càng nhiều muội, dễ làm cho
pittông quá nóng, dễ xảy ra hiện tượng cháy sớm, kích nổ và đoản
mạch do buji bị bám muội than. Ngược lại, pha ít dầu nhờn, bôi trơn
kém, ma sát lớn dễ làm cho pittông bị bó kẹt trong xylanh.
16
CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
4.3 KẾT CẤU CỦA CÁC BỘ PHẬN CHỦ YẾU CỦA HỆ THỐNG BÔI TRƠN:
4.3.1 Thiết bị lọc dầu nhờn:
4.3.1.1 Công dụng
- Để đảm bảo ổ trục ít bị mài mòn do tạp chất, dầu nhờn dùng để bôi trơn
phải rất sạch. Trong quá trình làm việc dầu nhờn bị phân huỷ và nhiễm bẩn
bởi nhiều loại tạp chất như:
+ Mạt kim loại do các mặt ma sát mài mòn, nhất là trong thời gian
chạy rà động cơ mới và trong thời gian động cơ đã làm việc quá chu kỳ đại tu.
+ Các chất tạp lẫn trong không khí nạp như cát bụi và các chất khác.
Các tạp chất này theo không khí nạp vào xylanh rồi lẫn với dầu nhờn, chảy
xuống cácte.
+ Muội than do nhiên liệu hoặc dầu nhờn cháy bám trên xylanh, theo
dầu nhờn xuống cácte.
+ Các tạp chất hoá học do dầu nhờn biến chất, bị oxy hoá hoặc bị
tác dụng của các loại axit sinh ra trong quá trình cháy.
- Để loại bỏ những tạp chất trên, nhất là các tạp chất cơ học, người ta
phải lọc sạch dầu nhờn bằng các thiết bị lọc dầu.
17
CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
4.3.1.2 Cấu tạo và nguyên lý hoạt động của một số loại bầu lọc
Dùng các phần tử lọc cơ khí, chủ yếu bao gồm các lọai sau:
- Phao hút dầu: Kết cấu của phao hút dầu giới thiệu trên hình. Nó bao gồm
có hai phần chính: bầu phao và lưới lọc thô. Bầu phao làm cho phao hút lúc nào
cũng nổi lập lờ trên mặt thoáng của dầu nhờn nên có thể hút được lớp dầu sạch.
4.3.1.2.1 Bầu lọc cơ khí.
Bầu lọc cơ khí
1: bầu phao; 2: lưới lọc; 3: khớp động; 
4: ống dẫn dầu
- Lưới lọc bằng đồng hoặc
bằng thép, cỡ mắt lưới lớn đến
1mm2, chủ yếu dùng để lọc sạch
bọt bẩn và tạp chất có kích thước
lớn. Phao hút dầu được lắp với
ống dẫn dầu 4 bằng khớp động vì
vậy phao có thể lắc đi một góc
nhất định, nhờ đó khi động cơ
làm việc ở độ cao khác nhau,
phao hút dầu lúc nào cũng nổi
trên mặt dầu, không bị hẫng ra
khỏi mặt dầu trong cácte.
18
CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
- Bầu lọc thấm ngày nay
được dùng hết sức rộng rãi, nguyên
lý làm việc của bầu lọc thấm cụ thể
như sau: dầu nhờn có áp suất cao
chui qua (thấm qua) các khe hở
nhỏ (khe hở có thể nhỏ đến 0,1m)
của phần tử lọc, do đó các tạp chất
có đường kính hạt lớn hơn kích
thước khe hở đều bị gạt giữ lại
không chui qua phàn tử lọc, vì vậy
dầu nhờn được lọc sạch.
- Dầu bẩn theo đường dầu 3 vào trong
lọc, vật liệu lọc 6 sẽ giữ lại các căn bẩn và cho
dầu sạch thấm qua và đi ra đường dầu 4 để đi
bôi trơn các chi tiết của động cơ. Van 5 có tác
dụng ngăn cản dầu chảy ra ngoài khi bầu lọc
nằm ngang hoặc lật úp. Khi lõi lọc bị tắc thì áp
suất dầu sẽ tăng lên khi đó van 7 sẽ mở, lúc này
bầu lọc không có tác dụng lọc dầu.
5.3.1.2.2 Bầu lọc thấm : 
19
CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
Kết cấu bầu lọc:
1: thân bầu lọc; 
2: Vòng đệm; 
3: đường dầu vào; 
4: đường dầu ra; 
5: van kiểm tra; 
6: vật liệu lọc; 
7: van sẽ mở khi lọc bị 
tắc.
20
CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
- Tất cả ác loại bầu lọc thấm đều giống nhau về nguyên lý và cấu tạo chung, 
chúng chỉ khác nhau về cấu tạo vật liệu lọc.
- Trong một số loại động cơ dùng trên xe 
ôtô, người ta còn dùng bầu lọc thấm dùng 
tấm lọc kim loại, bầu lọc tổ hợp gồm cả 
lọc thô và lọc tinh(lọc thô bao phía bên 
ngoài có thể dùng loại lọc dùng dải lọc 
hoặc lưới lọc. Lọc tinh đặt phía bên trong 
dùng lõi lọc bằng giấy lọc).
- Ưu điểm chung của tất cả các
loại tấm lọc thấm là khả năng lọc rất tốt,
lọc rất sạch. Nhưng nhược điểm chung
của chúng là kết cấu rất phức tạp và thời
gian sử dụng rất ngắn. Theo thí nghiệm
thường không quá 50 giờ, chất bẩn đã
bám đầy khe lọc khiến cho khe lọc bị bí,
van an toàn của lọc phải làm việc, khiến
cho bầu lọc mất tác dụng.
21
CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
Sơ đồ lắp bầu lọc thấm thường dùng
22
CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
5.3.1.2.3 Bầu lọc ly tâm:
- Trong những năm gần đây, 
bầu lọc ly tâm được dùng rộng rãi vì 
chúng có những ưu điểm cơ bản sau 
đây:
+ Do không dùng lõi lọc (các 
phần tử lọc) nên khi bảo dưỡng định 
kỳ không cần thay thế các phần tử 
lọc.
+ Khả năng lọc tốt hơn nhiều 
so với loại lọc thấm dùng lõi lọc.
+ Tính năng lọc ít phụ thuộc 
vào mức độ cặn bẩn lắng đọng trong 
bầu lọc.
+ Khả năng thông qua không 
phụ thuộc vào số lượng tạp chất lắng 
đọng trong bầu lọc.
23
CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
Lọc từ tính chủ yếu được dùng nhiều để lọc mạt sắt trong dầu 
nhờn. Loại lọc này thường dùng một thanh nam châm lắp trên nút dầu 
lắp ở đáy cácte. Do hiệu quả lọc mạt sắt của loại nút dầu có gắn nam 
châm rất cao nên trong các động cơ ngày nay thường được dùng rất 
rộng rãi.
5.3.1.2.3 Lọc từ tính:
5.3.1.2.4 Lọc hoá chất:
Bầu lọc dầu loại này chủ yếu sử dụng các hoá chất như cácbon 
hoạt tính, phèn chua v.v để hấp thụ tạp chất như nước, các chất ôxyt, 
các axit yếu v.v có lẫn trong dầu.
Các loại động cơ đốt trong ngày nay, không dùng loại bầu lọc 
này nữa.
24
CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
- Bơm dầu nhờn là một trong những bộ phận quan trọng 
của động cơ, nó có nhiệm vụ cung cấp liên tục dầu nhờn có áp 
suất cao đến các mặt ma sát để bôi trơn, làm mát và tẩy rửa mặt 
ma sát. Bơm dầu dùng trong động cơ đốt trong đều là loại bơm thể 
tích chuyển dầu bằng áp suất thuỷ tĩnh như các loại bơm pittông, 
bơm phiến trượt, bơm bánh răng và bơm trục vít. Trong đó bơm 
bánh răng được dùng hết sức phổ biến vì nó có các ưu điểm như: 
nhỏ gọn, áp suất bơm dầu cao, cung cấp dầu liên tục và làm việc 
rất an toàn, tuổi thọ khá dài. Dưới đây giới thiệu một vài loại bơm 
dầu thường dùng trong động cơ đốt trong.
5.3.2 Bơm dầu nhờn:
5.3.2.1 Công dụng
25
CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
5.3.2.2 Cấu tạo và nguyên lý hoạt động của một số loại bơm
5.3.2.2.1-Bơm bánh răng: 
26
CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
Nguyên lý làm việc và
kết cấu của bơm bánh răng rất
đơn giản nó gồm có hai bánh
răng (số răng thường ít hơn 17)
được dẫn động theo chiều
nhất định. Khi trục chủ động
được trục khuỷu hoặc trục
cam dẫn động bánh răng chủ
động quay dẫn động bánh
răng bị động quay theo chiều
ngược lại. Dầu nhờn từ đường
dầu áp suất thấp được hai
bánh răng bơm dầu guồng
sang đường dầu áp suất cao
theo chiều mũi tên. Để tránh
hiện tượng chèn dầu giữa các
răng của bánh răng khi ăn
khớp, trên mặt đầu của nắp
bơm dầu có rãnh triệt áp .
27
CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
Bơm bánh răng của động cơ đảo chiều
- Trong các động 
cơ điêzen trực tiếp dẫn 
động chân vịt của tàu 
thuỷ, do trục khuỷu của 
động cơ quay đảo chiều 
nên bơm dầu nhờn phải 
dùng cơ cấu van đặc biệt 
để đảm bảo dù bánh 
răng của bơm quay theo 
chiều nào dầu nhờn vẫn 
không đổi chiều lưu động, 
dầu luôn luôn đi đến các 
mặt ma sát mà không bị 
hút chảy ngược về cácte
28
CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
Bơm bánh răng ăn khớp trong
29
CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
5.3.3 Két làm mát dầu nhờn:
30
CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
31
CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
5.3.4 Thông gió hộp trục khuỷu:
1-Thông gió hở: 
32
CHƯƠNG IV : HỆ THỐNG BÔI TRƠN
2-Thông gió kín: 

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_ket_cau_dong_co_dot_trong_chuong_4_he_thong_boi_tr.pdf