Bài giảng Côn trùng lâm nghiệp
BÀI MỞ ĐẦU
I. Khái niệm về côn trùng học
1. Côn trùng học là gì?
Côn trùng học là một môn khoa học chuyên nghiên cứu về côn trùng.
Côn trùng học là những động vật thuộc ngành chân có đốt (Arthropoda) có những đặc điểm cơ bản như sau:
+ Cơ thể được chia thành 3 phần rõ rệt (đầu, ngực, bụng)
+ Trên đầu có một đôi râu đầu, miệng, hai mắt kép và 2-3 mắt đơn. Một số loài không có mắt đơn.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Côn trùng lâm nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Côn trùng lâm nghiệp
BÀI MỞ ĐẦU I. Khái niệm về côn trùng học 1. Côn trùng học là gì? Côn trùng học là một môn khoa học chuyên nghiên cứu về côn trùng. Côn trùng học là những động vật thuộc ngành chân có đốt (Arthropoda) có những đặc điểm cơ bản như sau: + Cơ thể được chia thành 3 phần rõ rệt (đầu, ngực, bụng) + Trên đầu có một đôi râu đầu, miệng, hai mắt kép và 2-3 mắt đơn. Một số loài không có mắt đơn. + Ngực chia làm 3 đốt, mỗi đốt mang một đôi chân, thời kỳ trưởng thành có 2 đôi cánh, một số chỉ có 1 đôi hoặc không có. + Lỗ sinh dục và hậu môn ở phía cuối bụng + Hô hấp bằng hệ thống ống khí quản + Trong quá trình sinh trưởng, phát dục có biến thái bên trong và biến thái bên ngoài. Vì thế người ta thường gọi côn trùng là lớp 6 chân (hexapoda) 2. Côn trùng trong sinh giới - Côn trùng có nhiều loài, số loài côn trùng đã biết chiếm 2\3-3\4 toàn bộ số loài của động vật - Môi trường sống của côn trùng rất đa dạng nên số lượng loài và số lượng các thể tương đối đông. II. Côn trùng với đời sống con người 1. Côn trùng có ích - Hạn chế và tiêu diệt côn trùng gây hại - Truyền thụ phấn hoa tăng năng suất cây trồng - Làm thuốc chữa bệnh - Cung cấp dinh dưỡng cho người - Cung cấp sản phẩm công nghiệp - Tạo chất dinh dưỡng cho cây cối - Cung cấp tài liệu cho các môn học khác 2. Côn trùng gây hại - Côn trùng gây hại cho cây trồng. - Côn trùng gây hại trong kho, vựa - Côn trùng gây hại trên người và các động vật máu nóng. --> Các phương pháp phòng trừ sâu hại hợp lý: Biện pháp canh tác; biện pháp hóa học, biện pháp sinh học. CHƯƠNG I: HÌNH THÁI HỌC CÔN TRÙNG Mục tiêu, yêu cầu: Mục tiêu: Hình thái học côn trùng là môn khoa học chuyên nghiên cứu về cấu tạo bên ngoài cơ thể côn trùng. Trên cơ sở đó tìm nguồn gốc, nguyên nhân hình thành các cấu tạo ấy, mối tương quangiữa cấu tạo với hoàn cảnh sống và đặc điểm sinh vật học của từng loài, tìm quy luật thích ứng của chúng. Giới thiệu các đặc điểm cấu tạo của côn trùng, những đặc điểm chung về cấu tạo của côn trùng. Giới thiệu về các dạng cấu tạo của côn trùng. Yêu cầu: Học sinh cần nắm được những đặc điểm cấu tạo về hình thái của côn trùng từ đó tìm hiểu được những quy luật thích ứng của chúng. Khái quát về cấu tạo cơ thể côn trùng - Cơ thể côn trùng được chia làm 3 phần: đầu, ngực, bụng - Côn trùng là động vật không xương sống, cơ thể côn trùng trưởng thành đều có 1 lớp da tương đối cứng”bộ xương ngoài” - Cơ thể côn trùng do 18-20 đốt cấu tạo nên. Nhưng hiện nay ở côn trùng bậc cao số đốt có những biến đổi lớn, số đốt thực tế có thể ít hơn. Hiện nay người ta đã biết cơ thể côn trùng gồm khoảng 200-250 tấm, khớp có thể cử động được. nhưng trên thực tế chỉ có khoảng 60-80 tấm là thực sự cử động được. II. Cấu tạo chi tiết của từng phần cơ thể côn trùng 1. Đầu côn trùng Đầu là phần trước nhất của cơ thể côn trùng, trên đầu có miệng, một đôi râu đầu, hai mắt kép và có 2-3 mắt đơn. Người ta có thể nói đầu là trung tâm cảm giác và lấy thức ăn. 1.1. Cấu tạo cơ bản của đầu Đầu côn trùng được bao bọc bởi một lớp vỏ kitin rất rắn chắc, các mảnh đã gắn chặt với nhau, sự phân đốt không thể thấy được ở thời kỳ trưởng thành mà vết tích phân đốt chỉ thấy được ở thời kỳ phát dục phôi thai. 1.2. Các kiểu đầu côn trùng Căn cứ vào vị trí miệng ở trên đầu người ta có thể chia đầu côn trùng thành 3 kiểu: Đầu miệng trước: Trục dọc của đầu song song hoặc thẳng hàng với trục dọc cơ thể. Kiểu đầu này thường gặm ở một số loài côn trùng có tính ăn thịt và một số loài côn trùng hại cây trồng thuộc họ vòi voi. Đầu miệng dưới: Trục dọc của đầu hầu như thẳng góc với trục dọc cơ thể. Kiểu đầu này thường gặm nhiều ở những loài côn trùng hại cây trồng thuộc họ châu chấu, dế mèn. Đầu miệng sau: Trục dọc của đầu và trục dọc cơ thể tạo thành một gốc nhọn. Kiểu đầu này thường gặm ở côn trùng miệng kiểu chích hút như Ve Sầu, thuộc họ cicadidae, bọ xít bọ rầy 2. Chi phụ của đầu 2.1. Râu đầu Cấu tạo của râu đầu: Râu đầu côn trùng được cấu tạo từ nhiều đốt và được chia thành 3 phần như sau: Chân râu: là đốt đầu tiên của râu đầu mọc từ ổ chân râu thường thô và ngắn bên trong có cơ điều khiển hoạt động của râu. Cuống râu: là đốt thứ 2 sau chân râu thường dài nhất và bên trong củng có cơ điều khiển hoạt động của râu. Roi râu: là phần tiếp theo sau cuống râu gồm nhiều đốt. Phấn này thay đổi rất lớn và phụ thuộc và loài và con đực hay con cái. Các dạng râu đầu: Dựa vào hình dạng của roi râu người ta chia râu côn trùng thành một số dạng như sau: - Râu đầu sợi chỉ: Phần roi râu có 1-2 đốt hơi to. Các đốt roi râu hình ống gần như điều nhau, càng về cuối càng nhỏ. Thường gặm ở các côn trùng thuộc họ châu chấu, họ gián - Râu đầu hình lông cứng: râu thường ngắn có 1-2 đốt chân râu lớn hơn các đốt sau. Các đốt sau mảnh nhỏ tựa lông cứng . - Râu hình răng cưa: gồm những đốt hình tam giác nhô về một phía trong như răng cưa. - Râu hình chuỗi hạt: Gồm những đốt hình hạt tròn nhỏnối tiếp nhau giống như chuỗi hạt. - Râu hình răng lược kép (lông chim) trừ 1-2 đốt chân râu còn các đốt khác kéo dài 2 bên trông như chiếc lược kép hoặc dạng lông chim. - Râu hình đầu gối: đốt chân râu dài cùng với các đốt roi râu tạo thành hình cong gấp tựa đầu gối. - Râu hình cầu lông: Trừ 1-2 đốt chân râu xum quanh các đốt khác lông mộc dài và mịn càng về phía cuối lông càng thưa dần. - Râu hình dùi đục: Hình ống nhỏ dài riêng các đốt cuối phình to dần lên như dùi đục. - Râu hình dùi trống: Các đốt cuối phình to rỏ rệt như hình cầu. - Râu hình chuỳ: Các đốt chân râu và cuống râu phình to như quả chuỳ. - Râu hình lá lợp: Các đốt phần roi râu phát triển thành những mảnh và có thểxoè ra hoặc xếp lại được. - Râu ruồi: râu đầu thường ngắn (2-3 đốt) phần góc phình to hình cầu, còn các đốt khác hình thành dạng lông cứng. trên lông cứng có những lông mịn nhỏ. * Chức năng của râu đầu: Râu đầu của côn trùng là một cơ quan cảm giác rất nhạy cảm. chức năng chủ yếu của râu đầu côn trùng là cơ quan xúc giác và khứu giác, thính giác, ngoài ra còn có những chức năng khác. 3. Miệng và chi phụ của miệng Miệng của côn trùng là công cụ để lấy thức ăn, nếm thức ăn. Miệng có nhiều loại nhưng có thể quy nạp thành 2 dạng cơ bản đó là miệng gặm nhai và miệng hút. 3.1. Miệng gặm nhai: là loại miệng ăn các thức ăn động, thực vật dạng thể rắn. Có cấu tạo 5 phần: Môi trên, lưỡi và có 3 đôi chi phụ là hàm trên, hàm dưới và môi dưới. 3.2. Miệng hút: Là loại miệng từ miệng nhai tiến hoá thành. Có khả năng vừa ăn thức ăn lỏng vừa ăn thức ăn rắn có nhiều kiểu miệng hút như: Miệng gặm hút, miệng chích hút, miệng hút, miệng giũa hút, miệng liếm hút, miệng cứa liếm, miệng dòi. 3.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu miệng côn trùng Cấu tạo miệng là một đặc điểm quan trọng để phân loại côn trùng Các loại sâu khác nhau khi phá hoại cây trồng đều để lại các vết cắn khác nhau, đặc trưng cho từng loài, qua vết cắn ta có thể biết được loại sâu nào cắn. Biết được kiểu miệng và phương thức lấy thức ăn ta có thể chọn được loại thuốc vị độc thích hợp. 4. Ngực và chi phụ của ngực 4.1. Cấu tạo cơ bản của ngực Ngực là trung tâm của sự vận động Ngực chia làm 3 đốt bên dưới mỗi đốt là một đôi chân. Hai bên về phía vùng lưng của đốt ngực giữa và đốt ngực sau có hai đôi cánh. 4.2. Chi phụ của ngực Cấu tạo của chân ngực của côn trùng được cấu tạo từ các đốt (Đốt châu, đốt chuyển, đốt đùi, đốt chạy, đốt bàn chân, móng) Các dạng chân Côn trùng có rất nhiều dạng chân tuỳ theo điều kiện, tập tính. (chân bò, chân nhảy, chân bắt mồi, chân đào bới, chân bơi lội, chân kẹp leo, chân bám hút, chân lấy phấn) 5. Cánh côn trùng 5.1. Cấu tạo côn trùng là động vật không xương sống sớm nhất và duy nhất có cánh. Cánh do da ở hai bên mảng lưng ngực giữa và ngực sau phát triển tạo thành. Ở giữa hai lớp biểu bì có các mạch cánh do tầng da đã hoá cứng tạo nên. Trong mạch cánh có các khí quản, dây thần kinh và mạch máu. Cánh của côn trùng thường có hình tam giác. 5.2. Các dạng cánh côn trùng Cánh cứng, cánh nửa cứng, cánh màng, cánh da, cánh vẩy, cánh tơ, cánh thăng bằng. 6. Bụng và chi phụ của bụng 6.1. Cấu tạo cơ bản của bụng Bụng là phần thứ 3 của cơ thể côn trùng. Bụng là trung tâm của sự trao đổi chất và sinh dục. Cấu tạo của bụng đơn giản hơn so với đầu và ngực. Bụng có nhiều nhất là 12 đốt. Côn trùng ở các bộ cấp cao số đốt bụng không vượt quá 10 đốt. Mỗi đốt bụng chỉ mang một mảnh lưng, một mảnh bụng và hai bên là phần màng các đốt bụng được nối với nhau bằng vòng màng. 6.2 Chi phụ của bụng Lông đuôi Bộ phận sinh dục ngoài 7. Da và màu sắc da côn trùng 7.1 Cấu tạo - Lớp biểu bì - Lớp nội bì - Lớp màng đáy 7.2 Màu sắc da côn trùng Màu sắc da côn trùng rất đa dạng và phong phú. Nó có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống côn trùng Xét về nguồn gốc màu sắc da chia làm hai loại - Màu sắc hoá học: Là màu sắc do các hợp chất hoá học cấu tạo da tạo thành. - Màu sắc lý học: Là màu sắc được tạo ra do cấu tạo vật lý của da côn trùng gây nên hiện tượng phản xạ, khúc xạ, giao thoa ánh sáng. Chương II: SINH LÝ GIẢI PHẪU CÔN TRÙNG Sinh lý giải phẫu côn trùng là môn khoa học chuyên nghiên cứu về cấu tạo và hoạt động của các bộ máy bên trong cơ thể côn trùng. Trên cơ sở đó tìm ra những mối liên hệ thống nhất của các bộ máy trong hoạt động sống của côn trùng: Quy luật biến đổi và khả năng thích ứng, thích nghi của các bộ máy: Vai trò và cơ chế tác động của các nhân tố sinh thái đến các hoạt động của chúng. I. Thể xoang và vị trí các bộ máy bên trong cơ thể côn trùng. Thể xoang là khoảng không gian được giới hạn bởi vỏ cơ thể bên trong có chứa các bộ máy. Thể xoang côn trùng kéo dài theo trục dọc cơ thể. Nhưng không liên tục theo chiều ngang. Nếu cắt ngang cơ thể côn trùng ở phần bụng ta thấy thể xoang được chia thành 3 phần do hai màng mỏng tạo ra. Màng ngăn trên gọi là màng ngăn lưng, màng ngăn dưới gọi là màng ngăn bụng. II. Cấu tạo và hoạt động sinh lý của các bộ máy bên trong cơ thể côn trùng. 1. Hệ cơ Hệ cơ của côn trùng rất phát triển và bao gồm toàn những sợi vân có khả năng co rút rất lớn. Số lượng cơ của mỗi cá thể côn trùng rất lớn. Sự phân bố và sắp xếp của hệ cơ côn trùng tuỳ thuộc vào loài và giai đoạn phát triển. Nhìn chung cơ tập trung ở 4 khu vực: đầu, ngực, cánh và bụng. Côn trùng có khả năng huy động 100% cơ hoạt động cùng một lúc cho nên lực tuyệt đối sinh ra rất lớn. 2. Bộ máy tiêu hoá 2.1. Cấu tạo và hoạt động Bộ máy tiêu hoá của côn trùng là một ống tiêu hoá nằm trong xoang máu ruột kéo dài dọc cơ thể. Căn cứ vào nguồn gốc hình thành người ta chia bộ máy tiêu hoá của côn trùng thành 3 phần: Ruột trước, ruột giữa và ruột sau. 2.2. Những biến đổi của bộ máy tiêu hoá Nguồn thức ăn của côn trùng rất đa dạng và phong phú cho nên bộ máy tiêu hoá của côn trùng cũng có nhiều biến đổi để thích nghi với từng loại thức ăn. Mỗi loại ôn trùng có kiểu miệng và thức ăn khác nhau. Bộ máy tiêu hoá đã có những biến đổi để thích nghi với nguồn thức ăn. 2.3. Các tuyến và men tiêu hoá Thức ăn chủ yếu của côn trùng gồm các loại hợp chất Gluxit, protein và lipit. Những chất này muốn biến thành năng lượng phải thông qua tác dụng của các loại men tiêu hoá. Men Cacbohidaza: phân giải các loại đường đa thành đường đơn giản dễ tiêu hoá. (Saccaraza, Amilaza, Mantaza) Những men này có nhiều trong tuyến nước bọt. Men Proteaza là men phân giải Protein thành các polypeptit rồi thanh các axit amin hấp thụ được. Men này do các tế bào của vách ruột giữa tiết ra. Men Lipaza do vách ruột giữa tiết ra và có tác dụng phân giải lipit thành glyxerin và axit béo. 2.4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu bộ máy tiêu hoá côn trùng Thông qua việc nghiên cứu bộ máy tiêu hoá của côn trùng giúp chúng ta có cơ sở để lựa chọn các loại thuốc trừ sâu phù hợp. 3. Bộ máy hô hấp 3.1. Cấu tạo bộ máy hô hấp Thông thường côn trùng có 10 đôi lỗ thở, 2 đôi ở ngực, 8 đôi ở bụng. Bộ máy hô hấp của côn trùng là một hệ thống ống dẫn khí phân nhánh hình rễ cây xuyên qua các màng ngăn đi khắp cơ thể cung cấp thẳng Oxy cho các bộ phân, các mô và đi đến tận các tế bào. Hệ thống ống khí quản này được nối liền với nhau bởi các khí quản dọc và khí quản ngang. Cuối cùng thông qua các lỗ thở. Lỗ thở của côn trùng do da lõm vào tạo nên và được phân bố dọc theo hai bên sườn cơ thể. 3.2.Các phương thức hô hấp Đa số côn trùng hô hấp bằng khí quản nhưng một số côn trùng kích thước nhỏ thuộc nhóm hạ đẳng không cánh và một số sâu non của những côn trùng nội ký sinh không có khí quản và thở bằng da. Các loại côn trùng không có lỗ thở củng hô hấp bằng da. Chương III: SINH VẬT HỌC CÔN TRÙNG Mục tiêu: Nghiên cứu các phương thức sinh sản, sinh trưởng phát triển và đặc tính sống của côn trùng Yêu cầu: Cần nắm được các phương thức sinh sản, các đặc điểm sinh trưởng của côn trùng. I. Các phương thức sinh sản của côn trùng 1. Sinh sản hữu tính Khái niệm: Sinh sản hữu tính là sự sinh sản có sự kết hợp giữa tế bào sinh dục đực và tế bào sinh dục cái. Có hai phương thức sinh sản hữu tính: Sinh sản hữu tính khác cơ thể, sinh sản hữu tính cùng cơ thể + Sinh sản hữu tính khác cơ thể: Là sinh sản phải có sự giao phối giữa cá thể đực và cái. Phương thức sinh sản này thường gặm ở những côn trùng có cá thể đực cái riêng biệt. Những loại côn trùng sinh sản theo phương thức này thì con cái sinh ra có sức sống cao, có khả năng thích nghi với điều kiện ngoại cảnh bất lợi. Những loài côn trùng này chúng ta có thể tiêu diệt con đực hoặc con cái thì có khả năng hạn chế được sức sinh sản của chúng. + Sinh sản hữu tính cùng cơ thể: Là phương thức sinh sản có sự kết hợp giữa tế bào sinh dục đực và tế bào sinh dục cái nhưng không cần sự giao phối. Phương thức sinh sản này thường thấy ở một số loài côn trùng có hiện tượng đực cái ở cùng cơ thể. Tuyến sinh sản của con cái có cả tinh trùng và trứng. Tế bào mặt ngoài của buồng trứng phát triển thành trứng. Tế bào mặt trong phát triển thành tinh trùng. 2. Sinh sản đơn tính Khái niệm: Sinh sản đơn tính là hình thức sinh sản không cần giao phối và không cần thụ tinh mà trứng vẫn có khả năng nở ra cá thể mới. Côn trùng có 3 phương thức sinh sản đơn tính: Sinh sản đơn tính ngẫu nhiên, chu kỳ, bắt buộc. 3. Sinh sản nhiều phôi Khái niệm: Sinh sản nhiều phôi tức là từ một trứng có thể nở ra nhiều cá thể mới. Thường gặm ở những loài ong ký sinh. 4. Sinh sản trước lúc trưởng thành Một số loài côn trùng ở thời kỳ sâu non trứng đã chín mà không cần thụ tinh vẫn có thể nở ra mới. Cơ thể mới nở sống trong cơ thể mẹ bằng chất dinh dưỡng của cơ thể mẹ. Sau khi hoàn thành giai đoạn phát dục con con đục thủng cơ thể con mẹ chui ra. Qua một số thế hệ sinh sản như trên sâu non hoá nhộng, hoá trưởng thành đực, cái và tiến hành giao phối sinh sản bình thường. 5. Hiện tượng đẻ con Một số loài côn trùng trứng được phát dục trong cơ thể mẹ và nở ra con trong cơ thể mẹ, khi đẻ ra ngoài đã là sâu non. II. Quá trình phát triển của côn trùng 1. Biến thái của côn trùng Quá trình phát triển của côn trùng là một quá trình liên tục được tính từ lúc trứng được thụ tinh tạo thành hợp tử cho đến khi cá thể mới chết sinh lý. Khái niệm: Biến thái là sự thay đổi về mặt hình thái. + Biến thái không hoàn toàn: là loại biến thái không triệt để. Trong quá trình sinh trưởng phát t ... thành khung hình vuông. Trải tấm linon che kín toàn bộ mặt khung và tạo thành bể đựng nước có chiều cao 15-20cm. Dùng đèn (tốt nhất là đèn xạc điện để tránh gây cháy) treo cách mặt nước 1,5m. Ban đêm khi đèn sáng ngài SRT sẽ theo ánh sáng bay tới và rơi xuống bể nước phía dưới. Để tăng hiệu quả diệt ngài SRT có thể cho vào bể nước một ít dầu hoả để tạo màng, khi ngài SRT bị rơi xuống bể nước sẽ nhanh chết hơn. Cũng có thể lợi dụng nơi có hồ ao, sông suối gần rừng để dặt bẫy đèn diệt sâu róm thông. Hình 13: Đèn bẫy Sâu róm thông tự tạo 8.3 Biện pháp lâm sinh - Khi vệ sinh rừng, nên để lại một số cây có hoa nhằm mục đích thu hút những loài ký sinh thiên địch của SRT. - Những nơi có điều kiện nên trồng hỗn giao thông với các loài cây khác để hạn chế sự lan tràn của SRT. 8.4 Biện pháp sinh học - Bảo vệ các loài ký sinh thiên địch hiện có trong rừng thông - Tạo điều kiện cho các loài ký sinh thiên địch trong rừng thông để hạn chế sự phát triển của SRT (giữ thảm thực vật trong rừng, nhất là những cây có hoa). - Không phá hại các tổ kiến vống, bọ ngựa, bọ xít ăn thịt (bọ xít hoa, bọ xít đỏ, chim, thú ăn sâu.) Hình 14. Bọ xít đỏ tấn công sâu non SRT - Sử dụng các chế phẩm sinh học trừ sâu róm thông Các chế phẩm sinh học được sử dụng theo bảng sau , trong đó cần chú ý đến cách pha nồng độ và thời gian phun có hiệu quả. Một số chế phẩm sinh học trừ sâu róm thông TT Chế phẩm sinh học Liều lượng Thời gian/Giai đoạn sử dụng 1 Bôvêrin (Beauveria bassiana) 5kg/ha Cuối đông đầu xuân, giai đoạn sâu non (sâu non tuổi 2-3). Phun lúc sáng sớm hoặc chiều tối, sau cơn mưa. 2 Nấm xanh Ma (Metarhyziumanisoplae) 5kg/ha Giai đoạn sâu non (sâu non tuổi 2-3), phun lúc sáng sớm hoặc chiều tối, sau cơn mưa. 3 Vi khuẩn Bacillin (Bacillus thuringiensis) 5 lit/ha Giai đoạn sâu non(sâu non tuổi 2-3), phun lúc sáng sớm hoặc chiều tối 8.5 Biện pháp hoá học Khi sử dụng biện pháp này cần phải có sự hướng dẫn và chỉ đạo của đơn vị bảo vệ thực vật. Biện pháp hoá học rất hạn chế sử dụng; chỉ được sử dụng khi dịch sâu thông bùng phát (số lượng sâu lớn, trên diện tích lớn). Các loại thuốc được chọn phải là các loại thuốc được nhà nước cho phép, ít độc hại với người và gia súc, có độ phân giải nhanh, ít ảnh hưởng đến môi trường. Một số thuốc trừ sâu róm thông TT Tên thuốc Liều lượng Thời gian/Giai đoạn sử dụng 1 Sherpa 25EC 1,5 lit/ha Giai đoạn sâu non (tuổi 2-3), phun vào lúc sáng sớm hoặc chiều muộn 2 Trebon 10 EC 1,5 lit/ha Như trên 3 Ofatox 400EC 1,5 lit/ha Như trên Chương I: CÔN TRÙNG VỚI ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI Đối với con người, côn trùng được xếp thành 2 nhóm: nhóm có lợi và nhóm có hại. Mặc dù còn rất nhiều loại được xem như không hoàn toàn thuộc hai nhóm trên nhưng do số lượng của chúng thấp và phần lớn cũng do tập quán sinh hoạt của chúng không gây hại trực tiếp đến con người nên những nhóm này ít được biết đến. I. CÔN TRÙNG CÓ ÍCH 1. Côn trùng và vấn đề thụ phấn. 2. Sản phẩm thương mại của côn trùng. 3. Côn trùng thiên địch. 4. Côn trùng ăn những chất hữu cơ mục nát. 5. Côn trùng tấn công những thực vật không có lợi. 6. Côn trùng là thức ăn của người và động vật. 7. Côn trùng đối với vấn đề nghiên cứu khoa học. Rất khó xác định chính xác giá trị có ích của côn trùng đối với con người qua các tác động như thụ phấn cho cây trồng, ăn mồi, phân hủy các chất hữu cơ mục nát, vai trò trong nghiên cứu khoa học,... 1. Côn trùng và vấn đề thụ phấn Có thể nói đây là lợi ích lớn nhất mà côn trùng mang lại cho con người, chỉ có một số thực vật cấp cao là tự thụ phấn, hầu hết là thụ phấn chéo, phấn được đưa từ hoa nầy đến hoa khác bằng hai cách: gió và côn trùng. . Có khoảng 80% cây trồng trong nông nghiệp thụ phấn nhờ côn trùng. Rất nhiều loại cây trồng đặc biệt là các loại cây trồng thuộc họ Rosacea (táo, lê, dâu tây), họ Bầu Bí Dưa (Cucurbitaceae) hoặc cây có múi (Citrus) ... phải dựa chủ yếu vào ong mật để thụ phấn. Côn trùng thụ phấn không phải chỉ bao gồm các loại ong mà còn nhiều loại côn trùng khác nữa như ngài, bướm, kiến, ruồi, .... . Tuy nhiên loài giữ vai trò lớn nhất cho sự thụ phấn có lẽ là ong mật, Aphis mellifera, nếu không có những loài nầy thì gần như không thể sản xuất được phần lớn những loại thực vật như cam, quít, bầu, bí, dưa,... Loại ong mật nầy ngày càng trở nên quan trọng hơn nhờ được thuần hóa và nuôi dưỡng với một số lượng rất lớn trong tự nhiên. Vấn đề thụ phấn do côn trùng thực hiện rất quan trọng, hàng năm năng suất của các loại thực vật được thụ phấn bởi côn trùng ước lượng khoảng 8 tỉ đô la Mỹ. 2. Sản phẩm thương mại từ côn trùng a - Mật và sáp ong Sản xuất mật là một ngành kỹ nghệ có từ lâu đời. Mật được sử dụng rất nhiều dưới dạng thức ăn và trong kỹ nghệ của nhiều sản phẩm. Sáp ong được sử dụng rất nhiều trong kỹ nghệ làm đèn cầy, sáp, đánh bóng và các loại mật cũng được sử dụng trong kỹ nghệ trang điểm, trong nha khoa và trong nhiều sản phẩm khác nữa. Tại Hoa Kỳ có khoảng 4 triệu đàn ong năm 1978, sản xuất khoảng 104,15 triệu kg mật, 1,67 triệu kg sáp ong. Trong năm 1987, riêng mật và sáp trị giá 230 triệu đô la Mỹ. b - Tơ Cũng là một ngành kỹ nghệ có từ lâu đời, rất nhiều loài ngài được sử dụng để lấy tơ nhưng quan trọng nhất vẫn là ngài Bombyx mori (L.), một loại ngài đã được thuần hoá. Mặc dù hiện nay tơ đã bị thay thế khá nhiều bởi các loại sợi nhân tạo nhưng vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong kỹ nghệ may mặc, hằng năm trên thế giới sản xuất có khoảng 29 - 34 triệu kg tơ được sản xuất trên thế giới. c - Gôm lắc Gôm lắc được tiết ra từ loại rệp dính Laccifera lacca, một loại rệp dính sống trên cây sung và cây Banyar trên một số cây khác tại Ấn Độ, Miến Điện và Indonesia, Formosa, Ceylon và Philippines. Tại Hoa Kỳ, 9 triệu đôla gôm lắc đã được sử dụng hàng năm. d - Thuốc nhuộm Rất nhiều loại côn trùng được sử dụng trong kỹ nghệ nhuộm, phổ biến nhất là loài rệp dính Dactylopius cocas. Thuốc nhuộm lấy từ loài côn trùng nầy có màu đỏ thắm và được sản xuất từ cơ thể khô của chúng. 3. Côn trùng thiên địch Côn trùng có khả năng sinh sản cũng như gia tăng mật số rất nhanh, nhưng mật số cao ít khi đạt được vì côn trùng thường bị nhiều loại động vật khác tấn công làm giới hạn mật số. Phần lớn động vật tấn công này cũng thuộc lớp côn trùng. Thành phần côn trùng thiên địch rất phong phú, hiện diện khắp mọi nơi, gần như nơi nào có côn trùng gây hại là đều có sự hiện diện của các loài côn trùng thiên địch. Một ví dụ điển hình về tác động của sự giới hạn côn trùng gây hại bởi thiên địch ăn mồi là trường hợp của rệp sáp Icerya purchasi, một loại dịch hại rất quan trọng trên cam, quýt tại California. Loại rệp sáp nầy đầu tiên được tìm thấy tại California năm 1868 và đã gây hại dữ dội trên kỹ nghệ cam quýt tại miền Nam California. Trong hai năm 1888 và 1889, bọ rùa Rodolia cardinalis từ Australia đã được đưa vào California để tiêu diệt Icerya purchasi và chỉ trong hai năm, rệp sáp Icerya purchasi đã bị đẩy lui ra khỏi các vườn cam quýt tại California. Đối với nhóm côn trùng thiên địch sống ký sinh trên những loài gây hại khác, có thể kể đến các loài ong ký sinh thuộc các họ Trichogrammatidae, Braconidae, Chalcididae, Ichneumanidae.. Hiện nay, các loài ong mắt đỏ Trichogamma đã được nuôi nhân với số lượng lớn và sử dụng rộng rãi khắp nơi trên thế giới để phòng trừ ít nhất là 28 loài sâu gây hại trên bắp, lúa, mía, bông vải, rau màu, củ cải đường, cây ăn trái, cây thông . Tác động của các côn trùng thiên địch (ăn mồi, ký sinh) rất lớn, có thể nói không có gì mà con người làm có thể so sánh với tác động của côn trùng thiên địch. Với nhiều ưu điểm nổi trội so với việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật để phòng trừ dịch hại , trong 3 thập kỷ qua đã có một sự gia tăng vượt bực về các công trình nghiên cứu và ứng dụng côn trùng thiên địch trong phòng trừ sinh học. 4. Côn trùng ăn những chất hữu cơ mục nát Côn trùng ăn những chất hữu cơ mục nát (thực vật, động vật, phân) giúp cho quá trình phân hủy nhanh chóng những chất nầy thành những chất đơn giản cần thiết cho cây trồng, giúp cho việc dọn sạch những chất bẩn ra khỏi môi trường sống của con người. Các loại côn trùng thuộc bộ Cánh cứng (Coleoptera) sinh sống bằng cách ăn và đục gỗ như mối, kiến và một số loại côn trùng ăn gỗ khác giúp cho những cành cây mục, gỗ mục phân hủy nhanh chóng hoặc những hang được tạo ra trong quá trình ăn phá sẽ làm cho các loại nấm xâm nhập khiến cho gỗ bị phân huỷ nhanh. Những loài này rõ ràng là rất cần thiết cho việc giữ cân bằng trong thiên nhiên. Tại Australia, một số loại bọ hung ăn phân được du nhập để hạn chế các tập đoàn ruồi trên các vùng nuôi gia súc. Loại bọ hung này ăn phân bò và làm sạch môi trường rất nhanh khiến cho dòi trong phân không đủ thời gian để hoàn thành sự phát triển. 5. Côn trùng tấn công những thực vật không có lợi Bên cạnh những loại côn trùng tấn công thực vật được xem như nhóm gây hại thì cũng có nhiều loại côn trùng cũng tấn công trên thực vật nhưng được xem như có lợi cho con người vì những loại nầy tấn công các loài cỏ dại, các loài thực vật không có lợi cho con người. Một số loại cỏ, thực vật khi được du nhập vào một vùng thường phát triển quá mạnh cho đến khi thành dịch. Trong một số trường hợp, côn trùng ăn thực vật đã được du nhập để hạn chế sự phát triển của các loài thực vật nầy. Một ví dụ điển hình về vai trò có ích của các loài côn trùng ăn thực vật: cây xương rồng Opunctia spp... được du nhập vào Australia năm 1925 đã phát triển dầy đặc trên 10 triệu hecta. Để hạn chế sự phát triển của Opunctia, một loại ngài Cactoblastis cactorum đã được du nhập từ Argentina vào Australia, hiện giờ diện tích của Opunctia chỉ còn 1/200 diện tích năm 1925. 6. Côn trùng là thức ăn của người và động vật Có rất nhiều động vật đã sử dụng côn trùng như thức ăn, đó là cá, chim và một số động vật có vú khác. Con người đôi khi cũng ăn một số loài côn trùng hay một số sản phẩm có từ côn trùng như mật ong và cà cuống, người Ả Rập ăn cào cào, người Phi Châu trước kia ăn kiến, mối và cào cào. Nhiều người Việt Nam xem “đuông dừa” như một món ăn quí hoặc như nhộng của ngài tằm được xem là một món ăn bổ dưỡng. 7. Côn trùng và vấn đề nghiên cứu khoa học Hiện nay rất nhiều loại côn trùng được sử dụng trong công tác nghiên cứu khoa học, tiêu biểu nhất là loại ruồi dấm Drosophila, loài này được sử dụng rất nhiều trong công tác nghiên cứu di truyền học. II. NHÓM CÔN TRÙNG GÂY HẠI 1. Côn trùng gây hại cho cây trồng. 2. Côn trùng tấn công trên những sản phẩm tồn trữ. 3. Côn trùng gây hại trên người và các động vật máu nóng. 1. Côn trùng gây hại trên cây trồng Hầu như tất cả các loài thực vật, đặc biệt là cây trồng, đều bị côn trùng gây hại. Tại Hoa Kỳ, sự thiệt hại do côn trùng gây ra cho cây trồng ước lượng khoảng 3 tỷ/năm. Sự thiệt hại có thể do côn trùng ăn phá trực tiếp đến các bộ phận của cây, hoặc đẻ trứng trên cây hoặc truyền bệnh cho cây. Tầm quan trọng của sự thiệt hại thay đổi từ việc làm giảm năng suất đến việc hủy diệt toàn bộ cây trồng. a - Thiệt hại do sự ăn phá trực tiếp Hầu hết sự thiệt hại trên cây trồng được gây ra là do sự ăn phá trực tiếp trên cây trồng của côn trùng. Sự thiệt hại thay đổi tùy theo nhóm côn trùng, tùy theo các đặc tính nội tại của côn trùng cũng như các điều kiện môi trường. Sự thiệt hại có thể từ rất nhẹ đến gây chết toàn bộ . b - Thiệt hại do đẻ trứng Một số côn trùng có tập quán đẻ trứng trong các bộ phận của cây, tập quán này đã ít nhiều ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của cây trồng, một số loài ve sầu khi đẻ trứng vào cành thường làm cho cành dễ bị gãy, một số loại khác đẻ trứng vào lá, vào trái làm cho lá và trái không phát triển bình thường và làm trái kém chất lượng. c - Thiệt hại do truyền bệnh cho cây trồng Trong thời gian gần đây, nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy rõ vai trò của côn trùng trong việc truyền bệnh cho cây trồng, khoảng 200 loại bệnh trên cây trồng là do côn trùng truyền, và đa số bệnh này là bệnh siêu vi khuẩn. Côn trùng có thể truyền bệnh cho cây bằng 3 cácH - Khi côn trùng chích hút cây trồng để lấy thức ăn, vết chích là cửa ngõ cho mầm bệnh xâm nhập vào cây trồng. Nhiều loại mầm bệnh đã xâm nhập vào cây bằng phương thức này. - Mầm bệnh có thể được mang trên hay trong cơ thể côn trùng và được côn trùng truyền từ cây nầy sang cây khác. Các loài ruồi và ong là tác nhân chủ yếu để truyền bệnh theo phương thức này. - Mầm bệnh có thể được tích trữ trên cơ thể côn trùng trong một thời gian ngắn (semi- persistent or non persistent) hoặc trong cơ thể côn trùng trong một thời gian dài (persistent) và được tiêm vào cây trồng khi côn trùng chích hút. Các loài côn trùng chích hút thuộc bộ Cánh đều (rầy mềm, rầy nâu, rầy xanh, rầy chổng cánh ... ) là tác nhân truyền bệnh chủ yếu của phương thức này, hầu hết các bệnh được truyền là bệnh siêu vi khuẩn, vi khuẩn, mycoplasma, spiroplasma, như bệnh lùn xoắn lá trên lúa được truyền bởi rầy nâu Nilaparvata lugens, bệnh khảm trên mía được truyền bởi rầy mềm, bệnh vàng lá gân xanh trên cam quít được truyền bởi rầy chổng cánh Diaphorina citri, bệnh Mycoplasma chủ yếu được truyền bởi rầy lá. - Sự thiệt hại gây ra do sự ăn phá trực tiếp của côn trùng có thể rất quan trọng, nhưng một tác nhân truyền bệnh, dù chỉ một vài cá thể cũng có thể làm giảm năng suất cây trồng một cách trầm trọng và có thể giết hàng loạt cây trồng và điều khó khăn hơn nữa là khi cây đã bị nhiễm các loại bệnh nầy thì rất khó trị. 2. Côn trùng gây hại trong kho vựa Đối với các nông sản phẩm tồn trữ, sự thiệt hại do côn trùng gây ra cho các sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp rất lớn. Có trên 300 loài, trong đó có khoảng 50 loài gây hại đáng kể. Chủ yếu là bộ Cánh vẩy (Lepidoptera) và bộ Cánh cứng (Coleoptera). Trong điều kiện tồn trữ kém, nhiệt độ, độ ẩm cao thì sự thiệt hại có thể lên đến 15 %. Công bố gần đây của FAO (Anon, 1979) chỉ kể riêng các kết quả nghiên cứu của các tác giả Mỹ về mất mát ngũ cốc sau thu hoạch vào năm 1967 ở các nước công nghiệp phát triển đã lên tới 42 triệu tấn, tức bằng 95% tổng sản lượng thu hoạch của nước Canada hay bằng gấp đôi sản lượng lương thực trong năm 1992 của nước ta. Bên cạnh các thiệt hại do côn trùng gây ra trên cây trồng và trong kho vựa thì nhiều công trình bằng gỗ như nhà cửa, đồ đạc,... cũng thường bị một số loài côn trùng tấn công. Loại phân bố rộng nhất và gây hại nặng nhất cho gỗ và những sản phẩm của gỗ là mối. Ngoài ra, một số sản phẩm làm từ sợi động vật như áo lông, mền, thảm, ... cũng thường bị côn trùng tấn công như các loài thuộc họ Dermestidae và một số ngài thuộc bộ Cánh vẩy. 3. Côn trùng gây hại trên người và động vật Côn trùng có thể tác động xấu đến con người và động vật bằng nhiều cách: a- Tiết nọc độc do vết cắn hay chích Gây mẫn cảm, sưng phù, đau đớn và đôi khi làm tê liệt hoặc gây đến tử vong. Nhóm gây hại đa số là nhóm chích hút như các loài ong, bọ xít, ruồi, muỗi,... b - Ký sinh và truyền bệnh Rất nhiều loài có thể sống ký sinh trên người và các động vật như chí, rận, bọ chét, rệp. Nhiều loài côn trùng là tác nhân truyền nhiều bệnh nguy hiểm cho con người như bệnh sốt rét, sốt xuất huyết được truyền bởi các loại muỗi, các bệnh tiêu chảy, thương hàn được truyền bởi các loại ruồi....
File đính kèm:
- bai_giang_con_trung_lam_nghiep.doc