Ba ca lâm sàng suy tim sau nhồi máu cơ tim do chấn thương ngực kín
Nhồi máu cơ tim (NMCT) do chấn thương
ngực kín đây không phải là bệnh hiếm gặp, tỉ lệ này
qua khảo sát tử thiết khoảng 2%, tuy nhiên trên
lâm sàng đến nay chỉ báo cáo những ca đơn lẻ, cho
thấy một tỉ lệ bỏ sót còn cao [4]. Cơ chế bệnh sinh
do co thắt mạch vành, bóc tách hoặc xé rách mạch
vành, tạo huyết khối trong lòng mạch. Đau ngực do
NMCT có thể bị che lấp bởi các triệu chứng của
chấn thương. Tầm soát NMCT ở bệnh nhân chấn
thương ngực lúc nhập viện là rất cần thiết. Biến
chứng suy tim khó tránh khỏi nếu như chẩn đoán
và can thiệp không kịp thời [5]. Chúng tôi báo cáo
3 trường hợp NMCT cấp ghi nhận sau chấn thương
ngực kín, biến chứng suy tim
Bạn đang xem tài liệu "Ba ca lâm sàng suy tim sau nhồi máu cơ tim do chấn thương ngực kín", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ba ca lâm sàng suy tim sau nhồi máu cơ tim do chấn thương ngực kín
CA LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017150 Ba ca lâm sàng suy tim sau nhồi máu cơ tim do chấn thương ngực kín Lý Văn Chiêu Khoa Nội Tim mạch, Bệnh viện Chợ Rẫy TÓM TẮT Nhồi máu cơ tim (NMCT) do chấn thương ngực kín đây không phải là bệnh hiếm gặp, tỉ lệ này qua khảo sát tử thiết khoảng 2%, tuy nhiên trên lâm sàng đến nay chỉ báo cáo những ca đơn lẻ, cho thấy một tỉ lệ bỏ sót còn cao [4]. Cơ chế bệnh sinh do co thắt mạch vành, bóc tách hoặc xé rách mạch vành, tạo huyết khối trong lòng mạch. Đau ngực do NMCT có thể bị che lấp bởi các triệu chứng của chấn thương. Tầm soát NMCT ở bệnh nhân chấn thương ngực lúc nhập viện là rất cần thiết. Biến chứng suy tim khó tránh khỏi nếu như chẩn đoán và can thiệp không kịp thời [5]. Chúng tôi báo cáo 3 trường hợp NMCT cấp ghi nhận sau chấn thương ngực kín, biến chứng suy tim. GIỚI THIỆU Chấn thương ngực kín có thể có các biến chứng lên tim từ rối loạn nhịp, tổn thương van tim cho đến các biến chứng nguy hiểm tính mạng như vỡ tim. Nhồi máu cơ tim (NMCT) sau chấn thương ngực kín tuy không phải hiếm gặp, nhưng có thể để lại biến chứng nặng hoặc tử vong nếu không được chẩn đoán và can thiệp sớm, nó thường xảy ra sau một chấn thương ngực kín nặng do tai nạn giao thông, tai nạn lao động hoặc chấn thương trong thể thao. Tỉ lệ NMCT sau chấn thương ngực được khảo sát qua tử thiết chiếm 2%[4]. Biến chứng này thường bị bỏ sót vì triệu chứng đau ngực của NMCT thường bị che lấp bởi các triệu chứng do chấn thương. Tổn thương mạch vành thường gặp nhất là nhánh LAD (76%), kế đến là RCA (12%), hiếm gặp nhất là LCx (6%)[2]. Cơ chế bệnh sinh do co thắt mạch vành, bóc tách hoặc xé rách mạch vành, tạo huyết khối trong lòng mạch. Suy tim sau NMCT gần như không thể tránh khỏi nếu như bệnh nhân không được can thiệp tái tái thông mạch vành sớm[6]. Chúng tôi báo cáo 3 trường hợp bệnh nhân chấn thương ngực gây ra nhồi máu cơ tim, tuy nhiên do chẩn đoán và can thiệp trễ, 3 bệnh nhân này đều diễn tiến đến suy tim. CA LÂM SÀNG 1 Bệnh nhân (BN) nam, 31 tuổi. Cách nhập viện 1 ngày, BN bị một thanh sắt khoảng 20kg đập trực tiếp vào ngực và chân trái khiến bệnh nhân ngất ngay sau đó. Bệnh nhân được chuyển đến bệnh viện địa phương 4 giờ sau đó, ghi nhận sinh hiệu ổn, điện tâm đồ có ST chênh lên ở V2, V3, V4, siêu âm tim phát hiện giảm động vách liên thất, EF 40%, XQ gãy 1/3 xương chày trái, troponin I hs là 96ng/ml, SGOT 763 IU/L, SGPT 116 IU/L. BN được chẩn đoán: chấn thương ngực gây tổn thương tim, gãy xương chày trái. Xử trí: kháng sinh, giảm đau. Sau CA LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 151 đó BN được chuyển đến Bệnh viện Chợ Rẫy. Tại Bệnh viện Chợ Rẫy, BN tỉnh táo, than đau ngực, khó thở khi nằm. Sinh hiệu ổn, có nhiều vết bầm máu giữa ngực. bệnh nhân được xét nghiệm tổng quát, CT ngực: Xẹp và đông đặc thùy dưới phổi Trái, phù mô kẽ và tràn dịch màng phổi 2 bên. bệnh nhân được chuyển lên khoa ngoại lồng ngực, Tại Khoa ngoại lồng ngực, bệnh nhân khó thở tăng dần bệnh nhân phải ngồi liên tục, sau 4 ngày tình trạng bệnh nhân nặng lên nhiều, chuyển bệnh nhân qua khoa hồi sức tích cực Điều trị 6 ngày tại khoa hồi sức tích cực, bệnh diễn tiến không thay đổi nên hổi chẩn rồi chuyển lên khoa nội tim mạch. Trong quá trình điều trị tại khoa ngoại lồng ngực và khoa hồi sức tích cực bệnh nhân đều được chẩn đoán là dập tim sau chấn thương ngực, nên không điều trị gì đặc hiệu. ECG có ST chênh lên từ V1-V6, aVL. Siêu âm tim ghi nhận giảm động vách liên thất thành trước, thành bên, vùng mỏm thất trái, EF 32%. Chụp mạch vành: Hẹp 95% LAD1, các nhánh còn lại không hẹp. Nhập viện 2 ngày 5 ngày 13 ngày 16 ngày CK-MB (IU/L) 111 36 13.4 10.1 23.8 Troponin I (ng/ml) >1 15.7 >1 0.5 0.07 SGOT (IU/L) 413 58 52 SGPT (IU/L) 88 61 42 Hình 1. ECG ngày nhập lúc nhập viện CR (sau chấn thương 24h) Hình 2. Siêu âm tim ngày thứ 4 của bệnh BN được chụp và can thiệp mạch vành vào ngày thứ 12 của bệnh: Hẹp 95% nhánh LAD1. Sau can thiệp, bệnh nhân ổn định, EF không cải thiện, BN xuất viện vào ngày thứ 18 của bệnh và điều trị nội khoa. 1 năm theo dõi, BN không có các triệu chứng của suy tim nhưng siêu âm tim có thất trái dãn lớn, còn giảm động thành trước và vách mỏm, EF 22%. CA LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017152 Hình 3. Siêu âm tim 1 năm sau chấn thương CA LÂM SÀNG 2 Bệnh nhân nam, 31 tuổi, trong khi đang chạy xe máy bị té đập mặt và vùng ngực vào nền đất. Sau tai nạn bệnh nhân thấy đau ngực, không khó thở, đau vùng hàm mặt. 15 ngày sau BN thấy khó thở phải ngồi, đau nhức gò má trái nên đi khám ở BV răng hàm mặt trung ương, được điều trị 3 ngày BN cảm thấy khó thở tăng dần, phù 2 chân, X quang: Tràn dịch màng phổi phải, gián đoạn xương gò má trái, chẩn đoán là Tràn dịch màng phổi phải - Gãy xương gò má trái rồi chuyển lên Bệnh viện Chợ Rẫy mà không xử trí gì đặc hiệu. Tại Bệnh viện Chợ Rẫy: BN tỉnh táo, khó thở phải ngồi, đau thành ngực. Sinh hiệu ổn, có nhiều mảng bầm ở ngực phải. Men tim: CK-MB: 42,3U/L, Troponon I<0,2 ng/ml. BNP: 1470pg/mL, SGOT: 2741 U/L, SGPT: 1294U/L, Creatine:1,6mg/dl, BUN: 23mg/dl. Siêu âm tim: dãn thất trái, giảm động vách liên thất và vùng mỏm thất trái, huyết khối mỏm thất thất trái, EF47%. Hình 4. ECG- nhịp xoang, sóng Q và T âm từ V2 – V6 BN được điều trị theo phác đồ điều trị suy tim cấp. Sau 10 ngày Bệnh nhân hết khó thở, hết phù. Men gan và chức năng thận về bình thường. siêu âm tim lại: Dãn thất trái, Giảm động vách liên thất và vùng mỏm thất trái, huyết khối mỏm thất trái EF: 36%. Hình 5. Siêu âm tim-Hình Trái: Lúc nhập viên (ngày thứ 18 của bệnh) CA LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 153 Bệnh nhân được chụp động mạch vành sau khi nhập viện 7 ngày, tắc LAD I, can thiệp không thành công. Hình 6. Chụp mạch vành: Tắc LAD I Hình 7. Siêu âm tim lại sau 3 ngày chụp mạch vành (ngày thứ 28 của bệnh) Sau đợt điều trị, BN xuất viện hết triệu chứng suy tim trên lâm sàng nhưng siêu âm tim: Chức năng co cóp thất trái đã giảm đáng kể. Bệnh nhân được theo dõi trong vòng 3 tháng, bệnh nhân thường xuyên có những đợt suy tim cấp phải nhập viện, sau 3 tháng siêu âm tim lại: Thất trái dãn lớn, giảm động vách liên thất và vùng mỏm thất trái, EF:27%. CASE LÂM SÀNG 3 Bệnh nhân nam, 24 tuổi, Cách nhập viện 3 giờ, BN chạy xe máy va chạm với 1 chiếc xe máy khác ngược chiều. Bệnh nhân té xuống đập mạnh vùng ngực và đầu vào mặt đường nhựa. Sau chấn thương BN tỉnh tiếp xúc chậm, đau và chảy máu vùng mặt bên trái, đau tức vùng ngực. BN nhập cấp cứu Bệnh viện Chợ Rẫy. Bệnh nhân được làm các xét nghiệm thường quy, CT ngực bụng, nhưng không được đo ECG và thử men tim. Được chẩn đoán: Gãy xương hàm dưới, được phẫu thuật cố định xương hàm dưới, rồi chuyển xuống khoa hồi sức tích cực điều trị 10 ngày. Tại đây bệnh nhân thường xuyên lên cơn khó thở, sau đó khó thở phải ngổi, bệnh nhân được xét nghiệm men tim, đo ECG và siêu âm tim (sau 9 ngày điều trị tại khoa hồi sức tích cực). CK-MB: 42,2U/L, Troponin I: 4,416 ng/ml. Hình 8. ECG ngày thứ 9 của bênh: ST chênh lên và sóng Q, Và sống T âm từ V2-V5 CA LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017154 Hình 9. Siêu âm tim ở ngày 9 của bênh: Giảm động vách liên thất và vùng mỏm thất trái EF; 35% Lúc này bệnh nhân được chuyển lên khoa nội tim mạch và được chụp động mạch vành vào ngày thứ 12 của bênh. Bệnh nhân được can thiệp đặt stent LMCA bằng stent phủ thuốc. Và bệnh nhân được xuất viện 2 ngày sau can thiệp mạch vành ( ngày 14 của bênh) Sau xuất viện bệnh nhân này bị mất dấu không thể liên lạc được. THẢO LUẬN Trên thế giới đã báo cáo một số trường hợp nhồi máu cơ tim sau chấn thương ngực kín, có bệnh nhân xuất viện không có biến chứng, có bệnh nhân tử vong nhưng ít nói đến suy tim sau nhồi máu cơ tim do chấn thương ngực[1],[3],[6]. Các bệnh nhân nhồi máu cơ tim sau khi chấn thương ngực không có biến chứng đều được đo ECG và can thiệp mạch vành sớm trong 24 giờ đầu, được nong bóng, hút huyết khối trong lòng mạch hoặc mổ bắc cầu qua đoạn tắc, sau can thiệp bệnh nhân ổn định, không có biến chứng gì[3]. Tổn thương mạch vành ở nhưng bệnh nhân này thường là những nhánh động mạch lớn, nằm nông. Một thời gian theo dõi hầu như bệnh nhân không có dấu hiệu suy tim trên lâm sàng lẫn trong siêu âm tim. Cả 3 bệnh nhân chúng tôi báo cáo đều trẻ tuổi, không tiền căn bệnh lý trước đó, bị chấn thương mạnh vào vùng ngực, sau chấn thương bệnh nhân đau ngực nhưng bị nhầm lẫn do vết thương ngực nên hầu như bệnh nhân không được chẩn đoán và can thiệp sớm. Đến khi bệnh nhân có triệu chứng của suy tim như khó thở, phù chân mới được tầm soát bằng men tim, ECG, siêu âm tim nên được can thiệp mạch vành muộn ở ngày thứ 7-12 của bệnh, vì vậy bệnh nhân xuất viện tuy tình trạng suy tim trên lâm sàng đã ổn định nhưng chức năng thất trái đã giảm đáng kể. Trong 3 trường hợp này, ngoại trừ một ca đã mất dấu thì 2 ca còn lại chức năng co bóp thất trái vẫn không cải thiện và có xu hướng thành suy tim mạn sau 3 tháng và sau 1 năm theo dõi. Đối với bệnh nhân chấn thương ngực kín, đo điện tâm đồ 12 chuyển đạo cần thiết phải thực hiện ngay tại phòng cấp cứu khi bệnh nhân nhập viện, có bất thường nên xét nghiệm men tim và siêu âm tim để xác định chẩn đoán. Hãy nghĩ đến nhồi máu cơ tim cấp sau chấn thương ngực nếu các cận lâm sàng trên bất thường. Can thiệp mạch vành sớm phải đề ra để giảm tỉ lệ biến chứng suy tim, rối loạn nhịp và các biến chứng khác CA LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 155 Suy tim sau nhồi máu cơ tim do chấn thương ngực cũng giống như suy tim do các nguyên nhân khác, bệnh diễn tiến thành suy tim mạn và theo bệnh nhân đến suốt đời. Câu hỏi đặt ra: - Bệnh nhân nhồi máu cơ tim sau chấn thương ngực kín: Chụp mạch vành có nên can thiệp đặt stent không? hay chỉ nong mạch và hút huyết khối? hoặc mổ bắc cầu? - Nếu bệnh nhân không được đặt Stent thì có nên sử dụng kháng kết tập tiểu cầu hay không? nếu dùng thì dùng đơn hay kháng kết tập tiểu cầu kép, dùng trong bao lâu? - Có sử dụng statin ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim do chấn thương ngực kín không? KẾT LUẬN Suy tim là biến chứng khó tránh khỏi ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim sau chấn thương ngực kín nếu không được can thiệp mạch vành sớm Tầm soát nhồi máu cơ tim ở bệnh nhân chấn thương ngực kín bằng ECG, men tim, siêu âm tim cần thiết phải được thực hiện ngay tại phòng cấp cứu khi bệnh nhân nhập viện Can thiệp mạch vành sớm có thể giảm tỉ lệ biến chứng suy tim ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim sau chấn thương ngực. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Goktekin O., Unalir A., Gorenek B., et al. (2002), "Traumatic total occlusion of left main coronary artery caused by blunt chest trauma", J Invasive Cardiol, 14 (8), pp. 463-5. 2. James M. M., Verhofste M., Franklin C., et al. (2010), "Dissection of the left main coronary artery after blunt thoracic trauma: Case report and literature review", World J Emerg Surg, 5, pp. 21. 3. Lai C. H., Ma T., Chang T. C., et al. (2006), "A case of blunt chest trauma induced acute myocardial infarction involving two vessels", Int Heart J, 47 (4), pp. 639-43. 4. Pretre R., Chilcott M. (1997), "Blunt trauma to the heart and great vessels", N Engl J Med, 336 (9), pp. 626-32. 5. Puanglumyai S., Thamtakerngkit S., Lekawanvijit S. (2016), "Death from undetected acute myocardial infarction secondary to coronary artery dissection after blunt thoracic trauma", Cardiovasc Pathol, 25 (2), pp. 169-71. 6. Tsai T. N., Yang S. P., Tsao T. P., et al. (2005), "Delayed diagnosis of post-traumatic acute myocardial infarction complicated by congestive heart failure", J Emerg Med, 29 (4), pp. 429-31.
File đính kèm:
ba_ca_lam_sang_suy_tim_sau_nhoi_mau_co_tim_do_chan_thuong_ng.pdf

