Atosiban: đối kháng thụ thể Oxytocin trong giảm cơn co tử cung
Sinh non theo Tổ chức Y tế thế giới định nghĩa là sinh trước 37 tuần tuổi thai. Khoảng 3,1 triệu trường hợp sinh non ghi nhận trên toàn thế giới mỗi năm trên 193 quốc gia (2010). Tử vong ở trẻ sơ sinh ghi nhận có 50% liên quan trẻ sinh non. Tại các nước phát triển, trẻ sinh non với tuổi thai 24 tuần ghi nhận tử vong là 80%, tuy nhiên ở 30 tuần tuổi thai có 90% trẻ sơ sinh nuôi được và 40 tuần tuổi thai trên 99% trẻ sơ sinh sống. Điều này có nghĩa là phải mất 10 tuần (30 - 40 tuần tuổi thai) để sống còn tăng lên khoảng 10%. Khả năng sống còn của thai non tháng tùy thuộc rất nhiều vào tuổi thai, hơn 50% tử vong ở thai dưới 28 tuần, tử vong liên quan thai hơn 34 tuần khoảng 5%. Hiện nay cứ trung bình 10 trẻ sinh sống, có 1 trẻ sinh non. Từ năm 2012, thế giới cũng đã chọn ngày 17 tháng 11 hàng năm là “Ngày trẻ sinh non” để nhắc nhở cho biến cố thường gặp này
Tóm tắt nội dung tài liệu: Atosiban: đối kháng thụ thể Oxytocin trong giảm cơn co tử cung
48 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 15, Số 2, Tháng 05 – 2015 Atosiban: đối kháng thụ thể Oxytocin trong giảm cơn co tử cung Huỳnh Nguyễn Khánh Trang* * PGS. TS., Bộ môn Phụ Sản Đại học Y Dược Tp HCM Email: [email protected]; DĐ: 0903882015. Sinh non theo Tổ chức Y tế thế giới định nghĩa là sinh trước 37 tuần tuổi thai. Khoảng 3,1 triệu trường hợp sinh non ghi nhận trên toàn thế giới mỗi năm trên 193 quốc gia (2010). Tử vong ở trẻ sơ sinh ghi nhận có 50% liên quan trẻ sinh non. Tại các nước phát triển, trẻ sinh non với tuổi thai 24 tuần ghi nhận tử vong là 80%, tuy nhiên ở 30 tuần tuổi thai có 90% trẻ sơ sinh nuôi được và 40 tuần tuổi thai trên 99% trẻ sơ sinh sống. Điều này có nghĩa là phải mất 10 tuần (30 - 40 tuần tuổi thai) để sống còn tăng lên khoảng 10%. Khả năng sống còn của thai non tháng tùy thuộc rất nhiều vào tuổi thai, hơn 50% tử vong ở thai dưới 28 tuần, tử vong liên quan thai hơn 34 tuần khoảng 5%. Hiện nay cứ trung bình 10 trẻ sinh sống, có 1 trẻ sinh non. Từ năm 2012, thế giới cũng đã chọn ngày 17 tháng 11 hàng năm là “Ngày trẻ sinh non” để nhắc nhở cho biến cố thường gặp này. Để chẩn đoán dọa sinh non hiện nay tại các nước đã phát triển dựa vào: siêu âm đo chiều dài kênh cổ tử cung và xét nghiệm chất nhày biến đổi do thay đổi ở cổ tử cung dưới ảnh hưởng của cơn co tử cung, chất fetal- fibronactin (fFN). Tại Việt Nam, siêu âm đo chiều dài kênh cổ tử cung đã và đang thực hiện ngày càng rộng khắp tại các cơ sở y tế có khoa Sản. Xét nghiệm fFN mặc dù cũng đã có trên thị trường, nhưng việc sử dụng còn ít vì giá thành khá cao. Do vậy trong thực hành hàng ngày hiện nay việc dùng tiêu chuẩn cơ co tử cung (đo bằng máy monitoring sản khoa hay bắt bằng tay) vẫn còn dùng phổ biến. Kết quả là tỷ lệ chẩn đoán dọa sinh non dương tính giả cao. Nghĩa là trong thực tế số thai phụ được chẩn đoán và cho nhập viện để điều trị dọa sinh non nhiều hơn thực tế. Qua nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới ghi nhận: chỉ có khoảng 50% các trường hợp dọa sinh non là có nguyên nhân xác nhận, chẳng hạn thai phụ bị viêm ruột thừa cấp hoặc viêm đường niệu trên cấp, và 50% trường hợp còn lại là không xác định được nguyên nhân. Việc điều trị dọa sinh non dựa vào nguyên tắc: (1) xử lý nguyên nhân nếu có, (2) dùng giảm co kéo dài thời gian để có thể dùng corticosteroids kích thích tế bào phế nang thai nhi tiết thêm chất hoạt diện bề mặt – surfactant, tối thiểu 48 giờ (3) đưa thai phụ đến cơ sở y tế có phương tiện và kinh nghiệm chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ sơ sinh non tháng. Y văn thế giới ghi nhận có nhiều thuốc giảm gò khác nhau được sử dụng gồm Ethanol, β- adrenergic agonists, Magnesium Sulfate, những thuốc ức chế tổng hợp Prostaglandin, thuốc chẹn kênh Ca2+, thuốc đối kháng thụ thể oxytocin. Trong phần dưới đây, sẽ tập trung vào việc trình bày một chế phẩm được dùng để giảm co: Atosiban, chất đối kháng thụ thể oxytocin.14 Quá trình co cơ tử cung phụ thuộc vào sự tương tác qua lại giữa actin và myosin. Sự co cơ là quá trình phosphoryl hóa chuỗi nhẹ myosin, dưới sự kiểm soát của men myosin light chain kinase (MLCK). 49 THÔNG TIN CẬP NHẬT Cơ chế giúp điều hòa sự co cơ tử cung trong suốt thai kỳ do những chất chính yếu gồm progesterone, relaxin, prostacyclin (PGI2), parathyroid hormone related peptide (PTH- rP), nitric oxide. Những chất này hoạt động bằng nhiều cách khác nhau, nhưng nhìn chung sẽ làm tăng nồng độ những nucleotide vòng – AMP vòng (cyclic adenosine monophosphate) hoặc GMP vòng (cyclic guanosine mono-phosphate). Sau đó, những nucleotide này ức chế phóng thích Ca2+ từ các chỗ dự trữ trong tế bào, và/hoặc làm giảm hoạt động enzyme MLCK, cần cho việc co các sợi cơ. Nồng độ Ca2+ trong tế bào thấp hơn trong huyết thanh và thay đổi tùy theo tử cung ở trạng thái co hay nghỉ. Trong trạng thái nghỉ, nồng độ Ca2+ trong tế bào là 1/100.000.000. Nồng độ trên 1/10.000.000 sẽ khởi phát cơn gò tử cung. Ca2+ cần thiết cho quá trình hoạt hóa MLCK và gắn với kinase như một phức hợp Calmodulin – Calcium. Ca2+ trong tế bào được điều hòa bởi hai cơ chế: tràn vào qua màng tế bào hoặc phóng thích từ vị trí dự trữ bên trong tế bào. Nồng độ của Ca2+ trong huyết thanh là 1/1000 M và không thay đổi nhiều. Khi có chuyển dạ, từng sợi cơ tử cung có phản ứng co, giữa các tế bào sợi cơ là các lỗ nối (gap junction) phối hợp hoạt động của các sợi cơ tử cung . Nồng độ canxi trong tế bào kết hợp với calmodulin để tạo thành phức hợp canxi-calmodulin. Phức hợp này sẽ kích hoạt các enzyme myosin chuỗi nhẹ kinase, mà lần lượt phosphoryl hóa myosin, tương tác với các sợi actin dẫn đến co cơ. Cơ chế co cơ tử cung liên quan với thụ thể tiếp nhận oxytocin là do có sự thay đổi nồng độ canxi trong tế bào liên quan thụ thể oxytocin qua trung gian thủy phân phosphatidylinositol-4,5-bisphosphate,sản xuất inositol-1,4,5-trisphosphate (IP3) kích thích gia tăng nồng độ ion canxi từ lưới nội bào tương. Ngoài tác dụng trực tiếp của oxytocin trên cô tử cung, việc sản xuất Prostaglandin (PG) trong màng rụng (deciduas) được hỗ trợ (Nguồn hình: Simhan H, Caritis S. N Engl J Med 2007; 357: 477-487) 50 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 15, Số 2, Tháng 05 – 2015 bởi oxytocin. Atosiban là một chất cạnh tranh với chất đối kháng thụ thể liên kết với vasopressin (V1a) và oxytocin thụ thể trên màng tế bào sợi cơ tử cung, trong nghiên cứu ghi nhận có 3 tác dụng làm giảm co của sợi cơ tử cung: (i) Atosiban cạnh tranh vị trí của thụ thể tiếp nhận oxytocin do vậy làm giảm sản xuất IP3 và dẫn đến giảm việc kích hoạt phóng thích ion canxi từ nội bào ở lưới nội bào tương (sarcoplasmic) của tế bào, (ii) ảnh hưởng đóng cửa các kênh điện áp trong màng tế bào, ngăn chặn dòng chảy của các ion canxi từ ngoại bào và (iii) ngăn ngừa sự kích thích oxytocin qua trung gian của PG tiết trong màng rụng và màng ối. Các nghiên cứu về hiệu quả của Atosiban Trong tạp chí Sản Phụ khoa của Anh, 1987 Akerlund M và cộng sự đã đăng tải về loạt ca lâm sàng đầu tiên của việc dùng atosiban với hiệu quả giảm co tử cung trong dọa sinh non và không ghi nhận bất lợi cho thai phụ và thai nhi. Tuy nhiên chỉ có 13 trường hợp được ghi nhận.1 Năm 1989, Andersen LF và cộng sự với báo cáo 12 trường hợp cũng ghi nhận hiệu quả giảm co tử cung và không ghi nhận tác dụng ngoại ý nào cho mẹ và thai.2 Năm 1994, Goodwin và cộng sự công bố kết quả nghiên cứu trong nghiên cứu pha II về atosiban trong điều trị giảm co ở dọa sinh non. Kết quả được đang tải trên tạp chí Obstet Gynecol.5 Tiếp đó là kết quả nghiên cứu so sánh atosiban với Ritodrine ghi nhận hiệu quả tương đồng và không có các tác dụng ngoại ý như Ritodrine.6 Năm 2000 một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng được công bố bởi Romero R và cộng sự được xem như pha III của nghiên cứu về atosiban với giả dược. Trong nghiên cứu này kết cục ghi nhận có sự khác biệt về tỷ lệ giảm cơn co tử cung ở nhóm có dùng atosiban trong 3 thời điểm 24 giờ 48 giờ và 7 ngày, tuy nhiên không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Atosiban có hiệu quả ưu thế ở nhóm có tuổi thai dưới 28 tuần.13 Năm 2001, Moutquin JM và cộng sự đã đang tải kết quả của mộtphân tích gộp gồm 3 thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng về hiệu quả của atosiban và beta minetic (Ritodrine, salbutamol và terrbutaline) lớn nhất hợp tác nhóm từ tám quốc gia khác nhau với mục tiêu chính là so sánh khả năng kéo dài thai kỳ ở thời điểm 48 giờ và 7 ngày. Kết quả là chưa ghi nhận có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê của atosiban và nhóm đối chứng, tuy nhiên ghi nhận ít tác dụng phụ và dung nạp dễ hơn của nhóm dùng atosiban.9 Liều điều trị giảm co trong dọa sinh non theo Hiệp hội Sản Phụ khoa Hoàng gia Anh tiêm liều ban đầu trong hơn 1 phút (bolus) là 6,75 mg. Truyền tĩnh mạch tiếp sau đó 18 mg mỗi giờ trong 3 giờ, sau đó duy trì truyền tĩnh mạch 6mg mỗi giờ trong 45 giờ kế đó. Thời gian điều trị không nên quá 48 giờ và tổng liều điều trị không nên quá 330 mg atosiban.14 Năm 2005 một tổng quan đang tải trên hệ thống Cochrane của Papatsonis và cộng sự đánh giá 6 thử nghiệm có liên quan dùng atosiban trên 1.695 thai phụ ghi nhận atosiban không giảm co hơn giả dược hay betaminetic. Tuy nhiên kết quả này không được nhiều chuyên gia công nhận vì cho rắng chọn mẫu trong các nghiên cứu có hiện tượng bị sai lệch hệ thống. Năm 2000, một thử nghiệm mù đôi có đối chứng với giả dược do Valenzuela và cộng sự thực hiện nhằm so sánh tác dụng duy trì giảm co của atosiban với giả dược trong dọa sinh non, đã ghi nhận atosiban kéo dài thai kỳ trung bình 32,6 ngày so với giả dược 27,6 ngày và các tác dụng ngoại ý cho mẹ và thai là không đáng kể.15 51 THÔNG TIN CẬP NHẬT Ảnh hưởng atosiban trên thai phụ Atosiban truyền tĩnh mạch ghi nhận một số ít trường hợp có đỏ da vùng tiêm.15 Tuy nhiên các tác dụng phụ trên tim mạch ít hơn nhóm betaminetics và tỷ lệ phải ngưng điều trị do tác dụng ngoại ý chỉ 1% so với 15% ở nhóm betaminetics.9 Atosiban có ái lực với thụ thể vasopressin (V1a, V 1b và V2 ) cũng như các thụ thể oxytocin nhưng không ghi nhận có các biến chứng nguy hiểm liên quan đến thai phụ cho đến nay. Về lý thuyết, đối kháng oxytocin trong mô thụ thể oxytocin có thể ức chế tiết sữa hoặc ảnh hưởng co tử cung sau sinh nhưng ngắn.7 Các báo cáo thường xuyên nhất điều trị tác dụng phụ sự kiện là nhịp tim mẹ nhanh (5,5%) có buồn nôn, (11,9%) nhức đầu, (9,7%), chóng mặt, nóng bừng mặt và ói mửa, lo âu (1,1%) và run (1,4%).9 Tác động của của atosiban lên thai nhi Năm 1998, FDA chưa chấp nhận atosiban vì dựa trên kết quả nghiên cứu của Romeo R và cộng sự ghi nhận trong nghiên cứu so sánh atosiban với nhóm chứng dùng giả dược tỷ lệ tử vong chu sinh trong nhóm dùng atosiban cao hơn. Nhưng phân tích sâu hơn sau đó từ nghiên cứu này ghi nhận có bất cân xứng trong phân nhóm tuổi thai, nhóm tuổi thai với nhóm dùng atosiban có tuổi thai <26 tuần chiếm tỷ lệ cao.13 Cho đến tháng 6 năm 2007, atosiban chính thức đựơc chấp thuận tại 67 quốc gia. Số lượt dùng atosiban từ tháng 1 năm 2000 đến tháng 12 năm 2005 là 156.468 có theo dõi thường xuyên về an toàn thuốc, đã cho thấy không có vấn đề đe dọa tính an toàn cho thai phụ và thai nhi. Nồng độ atosiban trong huyết thanh của thai nhi đã được ghi nhận là không đáng kể hoặc không thể phát hiện.4 Atosiban giảm co tử cung khi chuyển phôi trong thụ tinh trong ống nghiệm Bossmar và công sự (1994), Fush và cộng sự (1998) ghi nhận Oxytocin có ảnh hưởng rất ít đến sự co bóp của tử cung khi không có thai.16,17 Tuy nhiên, nghiên cứu trước đó có chỉ ra rằng sự co bóp của myometrium không mang thai là kết quả của oxytocin được qua trung gian thụ thể ở màng tế bào.18,19 Các nghiên cứu cũng tìm thấy nồng độ oxytocin tăng ở phụ nữ với đau bụng kinh, dẫn đến cơn co tử cung ngày càng tăng, gây thiếu máu cục bộ nội mạc tử cung và đau.20 Steinwall và cộng sự (2004) 21 đã cho thấy trong nghiên cứu: oxytocin cũng có thể được sản xuất trong các tế bào niêm mạc tuyến tử cung khi không mang thai. Oxytocin có nguồn gốc nội mạc tử cung có thể kích thích hoạt động cơ tử cung và do đó ảnh hưởng đến vận chuyển tinh trùng cũng như trứng và ảnh hưởng sự làm tổ. Sự ức chế của các thụ thể oxytocin làm giảm tác động co bóp tử cung ở những phụ nữ không mang thai.22 Dùng atosiban để giảm co cơ tử cung giúp góp phần tăng tỷ lệ thành công trong thụ tinh trong ống nghiệm. Liều thường được dùng: liều ban đầu 6,75 mg dùng trước chuyển phôi 30 phút. Kế đó truyền tĩnh mạch 18 mg trong một giờ. Sau chuyển phôi duy trì liều 6 mg một giờ và duy trì trong 2 giờ. Tổng liều khoảng 37,5 mg.11 Giảm cơn co tử cung với chất kháng thụ thể oxytocin – atosiban đã và đang ứng dụng ngày càng nhiều trong thơi điểm hiện tại với hiệu quả ghi nhận và tác dụng ngoại ý thấp. ứng dụng không chỉ trên tử cung đang mang thai và ngay cả trên tử cung khi chưa mang thai là một điểm đặc sắc của atosiban. Tài liệu tham khảo 1. Akerlund M, Stromberg P, Hauksson A, et al. Inhibition of uterine contractions of premature labour with an oxytocin analogue. Results from a pilot study. Br J Obstet Gynaecol 1987 ; 94 (11): 1040 -1044. 2. Andersen LF, Lyndrup J, Akerlund M, Melin P. 52 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 15, Số 2, Tháng 05 – 2015 Oxytocin receptor blockade: a new principle in the treatment of preterm labor? Am J Perinatol 1989 ; 6 (2): 196 -9. 3. Cabrol D, Gillet JY, Madelenat P. Treatment of preterm labor with the oxytocin antagonist atosiban: a double-blind, randomized, controlled comparison with salbutamol. Eur J Obstet Gynecol Reprod Biol 2001 ; 98 (2): 177 -85 4. Ervin MG. Perinatal fluid and electrolyte regulation: role of arginine vasopressin. Semin Perinatol 1988 ; 12 (2): 134 -42 . 5. Goodwin TM, Paul R, Silver H, et al. The effect of the oxytocin antagonist atosiban on preterm uterine activity in the human. Am J Obstet Gynecol 1994 ; 170 (2): 474 -8 6. Goodwin TM, Valenzuela GJ, Silver H, Creasy G. Dose ranging study of the oxytocin antagonist atosiban in the treatment of preterm labor. Atosiban Study Group. Obstet Gynecol 1996 ; 88 (3): 331 -6 7. Lamont RF, Greenfi eld P. Anti-oxytocic tocolytic agents. In: Sturdee D, Olah K, Purdie D, Keane D, editors, The yearbook of obstetrics and gynaecology. London: RCOG Press; 2002 . p. 130 -40 8. Marsal K, Fisk NM, Calder AA. The oxytocin antagonist atosiban versus the beta-agonist terbutaline in the treatment of preterm labor. A randomized, double-blind, controlled study. Acta Obstet Gynecol Scand 2001 ; 80 (5): 413 -22 9. Moutquin JM, Cabrol D, Fisk NM. Effectiveness and safety of the oxytocin antagonist atosiban versus beta-adrenergic agonists in the treatment of preterm labour. The Worldwide Atosiban versus Beta-agonists Study Group. Br J Obstet Gynaecol 2001 ; 108 (2): 133 -42 10. Moutquin JM, Sherman D, Cohen H, et al. Double- blind, randomized, controlled trial of atosiban and ritodrine in the treatment of preterm labor: a multicenter effectiveness and safety study. Am J Obstet Gynecol 2000 ; 182 (5): 1191 -9 11. Ozlem Moraloglu, Esra Tonguc, Turgut Var, Tugba Zeyrek, Sertac Batıoglu. Treatment with oxytocin antagonists before embryo transfer may increase implantation rates after IVF . Reproductive BioMedicine Online (2010) 21, 338– 343 12. Papatsonis D, Flenady V, Cole S, Liley H. Oxytocin receptor antagonists for inhibiting preterm labour. Cochrane Database Syst Rev 2005 ;(3):CD004452 13. Romero R, Sibai BM, Sanchez-Ramos L, et al. An oxytocin receptor antagonist (atosiban) in the treatment of preterm labor: a randomized, double- blind, placebo-controlled trial with tocolytic rescue. Am J Obstet Gynecol 2000 ; 182 (5): 1173 -83 14. Royal College of Obstetricians and Gynecologist. Tocolytic drugs for woman in preterm labour. Clinical guideline No1 (B) October 2002. 15. Valenzuela GJ, Sanchez-Ramos L, Romero R, et al. Maintenance treatment of preterm labor with the oxytocin antagonist atosiban. The Atosiban PTL- 098 Study Group. Am J Obstet Gynecol 2000 ; 182 (5): 1184 -90. 16. Bossmar T, Akerlund M, Fantoni G, Szamatowicz J, Melin P, Maggi M. Receptors for and myometrial responses to oxytocin and vasopressin in preterm and term human pregnancy: effects of the oxytocin antagonist atosiban. Am J Obstet Gynecol. 1994 Dec;171(6):1634-42.
File đính kèm:
atosiban_doi_khang_thu_the_oxytocin_trong_giam_con_co_tu_cun.pdf

