Application of the Principles of Ecological Philosophy in Vietnam Social Development Today
Abstract: Climate change is now considered one of the most pressing “global issues” that
humanity is addressing. In that context, there are more and more ecological research sciences
called collectively the ecological sciences including ecological philosophy. Ecological philosophy
is a term used to describe a new discipline of philosophy that dates from the 1980s of the last
century. Although it has just emerged, ecological philosophy has proved to be a growing influence
by not only the interdisciplinary nature of research but also its practicality and its era of urgency.
On the basis of analyzing general theoretical issues about ecological philosophy, analyzing the
initial results of the implementation of ecological philosophy research in Vietnam in recent years,
the author of this article initially stated up some orientations and propose basic solutions to apply
the results of ecological philosophy research in Vietnam social development today.
Keywords: Ecological philosophy, ecological ethics, ecological social model, climate change,
sustainable development.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Application of the Principles of Ecological Philosophy in Vietnam Social Development Today
VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 1 Review article/Original article Application of the Principles of Ecological Philosophy in Vietnam Social Development Today Pham Cong Nhat* VNU University of Social Sciences and Humanities, 336 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, vietnam Received 29 January 2019 Revised 22 March 2019; Accepted 22 March 2019 Abstract: Climate change is now considered one of the most pressing “global issues” that humanity is addressing. In that context, there are more and more ecological research sciences called collectively the ecological sciences including ecological philosophy. Ecological philosophy is a term used to describe a new discipline of philosophy that dates from the 1980s of the last century. Although it has just emerged, ecological philosophy has proved to be a growing influence by not only the interdisciplinary nature of research but also its practicality and its era of urgency. On the basis of analyzing general theoretical issues about ecological philosophy, analyzing the initial results of the implementation of ecological philosophy research in Vietnam in recent years, the author of this article initially stated up some orientations and propose basic solutions to apply the results of ecological philosophy research in Vietnam social development today. Keywords: Ecological philosophy, ecological ethics, ecological social model, climate change, sustainable development . __________ Corresponding author. E-mail address: nhatpc2010@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnuer.4167 VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 2 Vận dụng các nguyên lý của triết học sinh thái trong phát triển xã hội ở Việt Nam hiện nay Phạm Công Nhất* Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội 336 Nguyễn Trãi, Quận Thanh Xuân, Hà Nội Nhận ngày 29 tháng 01 năm 2019 Chỉnh sửa ngày 22 tháng 3 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 22 tháng 3 năm 2019 Tóm tắt: Biến đổi khí hậu hiện được coi là một trong những “vấn đề toàn cầu” mang tính cấp bách nhất mà nhân loại đang quan tâm giải quyết. Trong bối cảnh đó đã xuất hiện ngày càng nhiều các ngành khoa học nghiên cứu về sinh thái gọi chung là các khoa học về sinh thái trong đó có triết học sinh thái. Triết học sinh thái là một thuật ngữ được dùng để diễn đạt về một chuyên ngành triết học mới xuất hiện từ những năm 1980 của thế kỷ trước. Mặc dù mới xuất hiện nhưng triết học sinh thái lại tỏ ra có một ảnh hưởng ngày càng to lớn bởi không chỉ tính chất liên ngành trong nghiên cứu mà còn thể hiện tính thực tiễn, tính thời đại mang tính cấp bách của nó. Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận chung về triết học sinh thái, phân tích những kết quả bước đầu của việc triển khai nghiên cứu triết học sinh thái tại Việt Nam những năm gần đây, tác giả bài báo này bước đầu nêu lên một số định hướng và đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm ứng dụng các kết quả nghiên cứu triết học sinh thái trong phát triển xã hội Việt Nam hiện nay. Từ khóa: Triết học sinh thái, đạo đức sinh thái, mô hình xã hội sinh thái, biến đổi khí hậu, phát triển bền vững. 1. Giới thiệu Với tính cách là một trong những chuyên ngành của triết học hiện đại, triết học sinh thái đã và đang là một trong những chuyên ngành triết học được nhiều quốc gia quan tâm nghiên cứu bởi nó không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn là một đòi hỏi hết sức cấp bách về mặt thực tiễn nhất là trong bối cảnh nhân loại đã và __________ Tác giả liên hệ. Địa chỉ Email: nhatpc2010@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnuer.4167 đang phải đối mặt với hiện tượng trái đất nóng lên, sự biến đổi của khí hậu toàn cầu với những tác động tiêu cực trên nhiều phương diện về môi trường sinh thái cùng với những xáo trộn trong đời sống cùng với các phương thức sinh hoạt hàng ngày của con người. Đối diện với các hiện tượng bất thường của thiên nhiên, thời tiết hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay đặc biệt là các quốc gia phát triển hẳn đã tìm ra giải pháp tạm thời để hạn chế, khắc phục. Tuy nhiên, để có những giải pháp lâu dài căn cơ nhằm giảm thiểu nguy cơ ô nhiễm môi trường, hướng tới xây dựng và phát triển một nền sinh VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 3 thái bền vững đối với từng quốc gia cũng như toàn cầu thì với các giải pháp dựa trên tư duy kỹ thuật hiện tại thì nhân loại dường như lại chưa thể đáp ứng được. Trong bối cảnh đó, việc đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng các kết quả nghiên cứu của triết học sinh thái để phát triển của đời sống xã hội của mỗi quốc gia hay trên phạm vi toàn cầu đã và đang được coi như là một trong những giải pháp tối ưu có thể khắc phục được những hạn chế của các giải pháp kỹ thuật truyền thống trong việc giải quyết các nguy cơ về khủng hoảng môi trường cũng như hướng tới việc xây dựng và phát triển một nền sinh thái bền vững hiện nay. Việt Nam là một quốc gia hiện đang nằm trong nhóm các quốc gia đang phát triển thuộc khu vực Đông Nam Á (châu Á). Trong quá trình phát triển hiện nay, mặc dù là một quốc gia có diện tích khiêm tốn (331.212 km2, xếp hạng thứ 66/193 thế giới – UN, 2007) nhưng lại có số lượng dân số tương đối đông (94.444.222 người, xếp hạng 14/193 thế giới – UN, 2016), với mức GDP bình quân đầu người khá thấp (khoảng 2.502 USD dự báo năm 2016, hạng 115/193 thế giới - World Economic Outlook: Vietnam” - IMF, 2016) cho thấy bên cạnh những mặt thuận lợi thì Việt Nam cũng đang đứng trước nhiều nguy cơ và thách thức, trong đó có nguy cơ thách thức về môi trường, về việc đảm bảo cho nền kinh tế, xã hội phát triển theo hướng bền vững. Do đó cũng giống như nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới thì định hướng phát triển của Việt Nam hiện nay không chỉ đơn thuần là tăng trưởng các chỉ số về kinh tế mà còn là đảm bảo sự phát triển hài hòa, ổn định và bền vững như Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Bảo đảm sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững” [1, tr.106]. Muốn vậy, việc đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng các kết quả nghiên cứu của triết học sinh thái vào sự phát kinh tế xã hội theo hướng bền vững ở Việt Nam hiện nay là hết sức cần thiết. Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận chung về triết học sinh thái, phân tích những kết quả bước đầu của việc triển khai nghiên cứu triết học sinh thái tại Việt Nam những năm gần đây, tác giả bài báo này bước đầu nêu lên một số định hướng và đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm ứng dụng các kết quả nghiên cứu triết học sinh thái trong phát triển xã hội Việt Nam hiện nay. Nội dung của bài báo này cũng phản ánh những kết quả nghiên cứu cơ bản của đề tài khoa học cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, mã số: QG.17.54 do tác giả làm chủ nhiệm và đã được nghiệm thu và đăng ký kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ tại Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia tháng 1/2019. 2. Các phương pháp Để triển khai nghiên cứu và trình bày kết quả nghiên cứu trong bài báo này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp như: - Các phương pháp của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: khách quan, toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể, thực tiễn - Các phương pháp chung: Phương pháp tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa, hệ thống hóa... - Phương pháp tiếp cận liên ngành: Phương pháp thống kê – so sánh, phương pháp dự báo 3. Các kết quả nghiên cứu Vài nét về triết học sinh thái Mặc dù khái niệm triết học sinh thái chỉ xuất hiện vào những năm gần đây1, nhưng tư __________ 1 Thuật ngữ triết học sinh thái (eecological philosophy hay ecosophy) được đặt ra bởi nhà triết học và nhà phân tâm học hậu cấu trúc người Pháp Félix Guattari (1930-1992) vào những năm 1980 của thế kỷ XX. Trước đó, Arne Dekke Eide Næss (1912 - 2009), một nhà triết học người Na Uy, người đã đặt ra thuật ngữ “deep ecology” (sinh thái sâu sắc) được coi là cha đẻ của trào lưu triết học sinh thái hiện đại. VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 4 tưởng về triết học sinh thái có từ rất sớm trong triết học cổ ở phương Đông và phương Tây. Trong triết học phương Đông, xuất phát từ mô hình vũ trụ về sự thống nhất trong sự tồn tại của con người và giới tự nhiên mà các nhà triết học Trung Quốc cổ đại đã cho rằng: con người là một bộ phận trong “tam tài” (Thiên – Địa - Nhân) cho nên con người là một phần của vũ trụ, đồng thời mỗi một con người lại là một vũ trụ thu nhỏ (thân nhân tiểu thiên địa), cho nên cuộc sống của con người không tách rời với môi trường xung quanh mình và với vũ trụ, trời đất. Triết lý về việc con người cần phải nhận thức mình là một phần của tự nhiên, phải thực hiện lối sống “thuận theo tự nhiên” đã được thể hiện rất rõ trong các học thuyết triết học của người Trung Quốc cổ xưa như “Thiên Nhân hợp nhất” Âm dương Ngũ hành hay trong Kinh Dịch. Người Ấn Độ lại cho rằng: mối quan hệ giữa con người và vũ trụ là mối quan hệ giữa cái Tiểu ngã (Atman) và cái Đại ngã (Bratman), là mối quan hệ giữa cái bộ phận và cái toàn thể, vừa có sự thống nhất vừa có sự khác biệt nên triết lý về vũ trụ quan và nhân sinh quan trong nhiều môn phái triết học Ấn Độ đã cố gắng đi tìm lời giải cho sự thống nhất đó thông qua các thuyết: vô thường, luân hồi... Khác với triết học phương Đông, triết học phương Tây chủ yếu hình thành trên phương thức tư duy duy lý nên việc quan niệm về mối quan hệ giữa con người và trời đất tương đối tách bạch và thường được lý giải một cách siêu hình. Tuy nhiên, một số nhà triết học biện chứng phương Tây đầu tiên như Heraclitus (535 – 475 TCN) lại cho rằng: thế giới luôn nằm trong một sự thống nhất. Trong thế giới đó, mọi sự vật luôn luôn thay đổi, vận động, phát triển không ngừng. Thế giới như một dòng chảy, cứ trôi đi mãi, “không ai có thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông” [2, tr.20]. Nhà triết học Protagoras (490 - 420 TCN) với luận điểm cho rằng: “Con người là thước đo của mọi vật” [3, tr.521], đặc biệt ông cũng là người đầu tiên nêu lên vai trò và vị trí của con người trong thế giới hiện thực. Trong thời kỳ phục hưng ở phương Tây, truyền thống tôn vinh con người, coi sự tồn tại của con người gắn liền với sự tồn tại của giới tự nhiên đã được các nhà triết học tiếp tục đề cao. Bước sang thời kỳ cận đại ở phương Tây, bên cạnh trào lưu quan niệm siêu hình về thế giới (chủ yếu là thế giới quan của khuynh hướng triết học duy vật siêu hình) thì các quan niệm về tính thống nhất của thế giới đã xuất hiện dưới nhiều hình thức triết học đa dạng, từ lý thuyết về “cái đơn tử” trong triết học của W.G.Leibniz (1646 - 1716) đến học thuyết về “ý niệm tuyệt đối” của nhà triết học G.W.F. Hegel (1870 - 1831). Dù rằng, quan niệm về tính thống nhất của thế giới, về mối quan hệ tác động qua lại giữa con người với thế giới tự nhiên của các ông đều được thể hiện trên lập trường triết học duy tâm. C.Mác (1818 - 1883) và Ph.Ăngghen (1820 - 1895) là những nhà lý luận tiên phong cho việc hình thành triết học sinh thái mácxít. Trong rất nhiều tác phẩm của mình cả C.Mác và Ph.Ăngghen không dấu diếm ý muốn xây dựng một học thuyết triết học có tính chất “hoàn bị” nhằm hướng tới giải phóng con người. Tuy nhiên, hai ông cũng cho rằng: muốn giải phóng được con người thì trước hết cần phải tôn trọng một sự thật là: con người chính là một bộ phận hữu cơ của giới tự nhiên, là kết quả lâu dài trong sự tiến hoá của tự nhiên. Cố nhiên, nếu so với phần còn lại của giới tự nhiên thì con người chính là “cái cơ thể phức tạp nhất mà giới tự nhiên sản sinh ra được” [4, tr.575]. Điều đó cũng có nghĩa là: “Giới tự nhiên... là thân thể vô cơ của con người. Con người sống bằng giới tự nhiên. Như thế nghĩa là giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói rằng đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với bản thân giới tự nhiên, vì con người là một bộ phận của giới tự nhiên” [5, tr.135]. Tuy nhiên, có một điểm mà cả C.Mác và Ph.Ăngghen luôn luôn nhấn mạnh là: mặc dù có nguồn gốc từ giới tự nhiên cũng như trong quá trình tồn tại và phát triển, con người không tránh khỏi sự lệ thuộc và ràng buộc bởi giới tự nhiên, nhưng với tư cách là VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 5 một động vật có “tính loài”, con người cũng luôn biết cách tác động vào tự nhiên, làm cho tự nhiên thay đổi theo mục đích của con người, nghĩa là con người chính là loài động vật duy nhất có khả năng làm chủ hoàn cảnh, làm chủ tự nhiên và điều đó đã tạo ra cơ hội giúp cho con người có khả năng tồn tại và thích nghi tốt hơn so với các loài động vật khác, bởi trong quá trình chinh phục tự nhiên con người đã biết tạo ra cho mình một “thiên nhiên thứ hai”, tức là xã hội loài người. Do đó, “Xã hội là sự thống nhất bản chất đã hoàn thành của con người với tự nhiên, sự phục sinh chân chính của tự nhiên..." [5, tr.170]. Tuy nhiên, các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác cũng lưu ý rằng: “Trong tự nhiên không có cái gì xảy ra một cách đơn độc cả. Hiện tượng này tác động đến hiện tượng kia và ngược lại” [6, tr.654]. Do đó, Ph.Ăngghen cảnh báo: “Chúng ta không nên quá tự hào về những thắng lợi của chúng ta đối với tự nhiên. Bởi vì mỗi lần chúng ta đạt được thắng lợi là mỗi lần tự nhiên trả thù lại chúng ta” [6, tr.652]. Như vậy, lý luận về giải phóng con người trong triết học Mác không chỉ đơn thuần là lý luận về giải phóng xã hội mà còn là giải phóng về mặt tự nhiên đối với con người. Việc giải phóng con người về mặt tự nhiên không chỉ là giải thoát sự lệ thuộc hoàn toàn của con người vào giới tự nhiên mà sâu xa hơn là làm thế nào để cho con người phải biết cách tồn tại, thích nghi và chung sống hoà bình với giới tự nhiên, biết khai thác tự nhiên và sử dụng tự nhiên một cách hợp lý và bền vững. Có thể coi đây là lý luận hết sức quan trọng của triết học Mác để hình thành nên nội dung nghiên cứu của triết học sinh thái sau này. Bước sang thế kỷ thứ XX, tư tưởng về triết học sinh thái được thể hiện khá đa dạng. Qua đó, một số bộ môn khoa học rất gần với triết học sinh thái đã được hình thành đồng thời đã đã được rất nhiều các tác giả tập trung nghiên cứu như: Đạo đức sinh học (Bioethics), Đạo đức y học (Medical Ethics). Đặc biệt, một số bộ môn khoa học như: Đạo đức môi trường (Environmental Ethics) của Ando leopold (Mỹ), Đạo đức sinh thái (Ecological Ethics) của Arne Naiess [7, tr.46-47] cù ... vững hiện nay. Xây dựng và phát triển nền kinh tế - xã hội theo mô hình sinh thái bền vững là xu hướng mang tính tất yếu khách quan của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam – một trong những quốc gia đã và đang chịu nhiều tác động từ xu hướng biến đổi khí hậu trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, ngay từ Đại hội VIII (1996), Đảng Cộng sản Việt Nam đã bắt đầu đặt ra mục tiêu cho chiến lược xây dựng và phát triển nền kinh tế - xã hội theo hướng “tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân” [17, tr.82]. Quan điểm phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững của Việt Nam đã được khẳng định tại các văn kiện Đại hội lần thứ IX, X, XI, đặc biệt trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, đó là “phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược” [18, tr.98]. Tại Đại hội lần thứ XII, quan điểm xây dựng và phát triển nền kinh tế - xã hội theo mô hình sinh thái bền vững một lẫn nữa được Đảng Cộng sản Việt Nam cụ thể hóa bằng chiến lược “đổi mới mô hình tăng trưởng”. Theo đó, “Mô hình tăng trưởng trong thời gian tới kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 9 sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế, phát triển nhanh và bền vững; giải quyết hài hoà giữa mục tiêu trước mắt và lâu dài; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, thân thiện với môi trường, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân” [1, tr.87]. Là một quốc gia đang trong quá trình phát triển, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự phát triển của Việt Nam trong những năm qua được ghi nhận như là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh trong khu vực và trên thế giới. Sau hơn 30 năm kể từ sau khi Việt Nam tiến hành sự nghiệp đổi mới, nền kinh tế - xã hội của đất nước nhìn chung có bước phát triển, đời sống vật chất của nhân dân từng bước được cải thiện, bộ mặt đời sống tinh thần xã hội ngày càng phát triển theo hướng tiến bộ. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên sự phát triển của nền kinh tế - xã hội Việt Nam thời gian qua bên cạnh những thành tựu phát triển rất đáng khích lệ nhưng cũng đã và đang tạo ra rất nhiều thách thức trước yêu cầu phát đưa nền kinh tế - xã hội phát triển theo mô hình sinh thái bền vững. Về kinh tế, do những hạn chế về khoa học, công nghệ cùng với chất lượng đội ngũ lao động chưa được cải thiện nên trình độ của nền sản xuất của Việt Nam hiện nay cơ bản vẫn còn lạc hậu, kém bền vững. Bên cạnh đó, vấn đề bảo vệ môi trường bền vững ở Việt Nam hiện nay đang đối diện với nhiều nguy cơ, thách thức. Do nhận thức về vấn đề bảo vệ môi trường còn hạn chế cùng với hệ thống luật pháp nhất là luật pháp về môi trường còn nhiều bất cập nên những năm qua chúng ta đã vô tình tạo ra một phương thức sản xuất và lối sống ít thân thiện với môi trường. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng đã làm cho công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, một số chỉ số cơ bản về môi trường xuống thấp quá ngưỡng trung bình so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Những năm qua, mặc dù “thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện, hiệu lực và hiệu quả được nâng lên” nhưng để có một thể chế xã hội thực sự dân chủ tạo điều kiện cho nền kinh tế - xã hội phát triển một cách bền vững cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế, thách thức [19]. Tất cả những hạn chế, thách thức trên đây cho thấy để đạt được các mục tiêu cơ bản trong chiến lược xây dựng và phát triển nền kinh tế - xã hội theo mô hình sinh thái bền vững ở Việt Nam hiện nay như đã phân tích cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức xây dựng mô hình xã hội Việt Nam hiện nay theo nguyên lý của triết học sinh thái. Đây là nhóm giải pháp mang tính chất tiền đề của mọi giải pháp tiếp theo. Muốn vậy, bên cạnh các chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước về việc xây dựng mô hình phát triển kinh tế - xã hội bền vững được hoàn thiện thì các giải pháp truyền thông phải vào cuộc. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền giáo dục, nhất là hình thức giáo dục cộng đồng, giáo dục cho các thế hệ công dân ngay từ những năm còn ngồi trên ghế nhà trường về ý thức phát triển bền vững cần phải được coi là nhiệm vụ quan trọng cần được thực hiện thường xuyên và liên tục. Công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức xây dựng mô hình xã hội Việt Nam hiện nay theo nguyên lý của triết học sinh thái cần được coi là những giải pháp đi trước để tiến hành các nhóm giải pháp tiếp theo trong việc phát triển xã hội theo mô hình sinh thái bền vững. Hai là, tích cực xây dựng và hoàn thiện hệ thống về cơ chế, chính sách nhằm xây dựng và thực hiện xây dựng và phát triển mô hình kinh tế - xã hội Việt Nam theo nguyên lý của triết học sinh thái. Thực ra, những năm gần đây, Đảng và Nhà nước cũng đã ý thức được về việc tạo ra một cơ chế cùng những chính sách quan trọng để tạo địa bàn cũng như cơ sở pháp lý cho xây dựng và phát triển mô hình xã hội theo hướng bền vững. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau nên việc vận dụng và phát huy những cơ chế và chính sách này lâu nay còn hạn chế. Xu VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 10 thế xây dựng và phát triển xã hội theo mô hình bền vững là xu thế không thể đảo ngược hiện nay trên thế giới. Việt Nam chúng ta đang nằm trong dòng chảy đó nên việc tổ chức các hoạt động của các cơ quan nhà nước trước hết là chính phủ trong việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng đơn thuần sang mô hình tăng trưởng bền vững là hết sức cấp bách, nhất là trong điều kiện Việt Nam đã và đang chịu những tác động tiêu cực nặng nề từ xu thế biến đổi khí hậu trên thế giới. Do đó, việc xây dựng các cơ chế chính sách trong phát triển bền vững hiện nay trước hết phải hướng đến ưu tiên trong các lĩnh vực phát triển kinh tế và công tác bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, các chính sách về việc xây dựng một thể chế dân chủ để tạo điều kiện cho kinh tế - xã hội phát triển theo hướng bền vững cần được chú trọng kịp thởi. Một khi hệ thống các cơ chế chính sách cho tăng trưởng bền vững dần dần được hoàn thiện thì mục tiêu hướng tới mô hình phát triển xã hội bền vững theo các nguyên lý của triết học sinh thái sẽ không còn là dự báo nữa, trái lại nó sẽ dần dần chuyển thành hiện thực tại Việt Nam. Ba là, tăng cường giao lưu kinh nghiệm quốc tế cho việc xây dựng mô hình kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay theo các nguyên lý của triết học sinh thái. Hiện nay trên thế giới có nhiều quốc gia đã xây dựng và phát triển thành công nền kinh tế - xã hội theo mô hình phát triển bền vững như: Cộng đồng Châu Âu, Nhật Bản hay Singapore Đây là những trường hợp điển hình tốt cho Việt Nam có thể tham khảo học hỏi từ các mô hình thành công đi trước không chỉ về cơ chế mà còn đặc biệt là hệ thống chính sách. Đặc điểm nổi bật nhất của các mô hình xã hội tại các quốc gia và nhóm các quốc gia này là bên cạnh việc nỗ lực phát triển kinh tế theo các mô hình “kinh tế xanh” họ còn chú ý tới các chính sách đảm bảo công bằng xã hội, đảm bảo sự phát triển hài hòa của các giai tầng khác nhau trong một xã hội ngày càng đa dạng, phong phú. Đó là những mô hình phát triển kinh tế - xã hội điển hình mà Việt Nam cần hướng đến học hỏi và áp dụng trong điều kiện thực tiễn của mình. Bốn là, tiếp tục tăng cường công tác nghiên cứu và ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào xây dựng mô hình kinh tế - xã hội Việt Nam theo các nguyên lý của triết học sinh thái như đã được nêu ra ở trên. Việc tăng cường công tác nghiên cứu và ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào xây dựng mô hình kinh tế - xã hội Việt Nam theo nguyên lý của triết học sinh thái hiện nay cần chú trọng vào những vấn đề cơ bản sau: Thứ nhất, cần chú trọng khai thác, sử dụng, bảo tồn và phát triển đối với các nguồn lực tự nhiên hiện có ở nước ta một cách hợp lý và bền vững. Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, công tác giáo dục nhằm nâng cao nhận thức về lối sống sinh thái. Đó là lối sống gần gũi, thân thiện với tự nhiên, lối sống trong đó có sự tác động qua lại giữa con người và môi trường tự nhiên trong sự phát triển bền vững. Thứ ba, bên cạnh đảm bảo phát triển bền vững các hệ sinh thái tự nhiên (environmental ecosystem), sinh thái xã hội (social ecosystem) thì cần chú trọng xây dựng và phát triển hệ sinh thái tinh thần (mental ecosystem). Trong đó, cốt lõi của việc xây dựng hệ sinh thái xã hội hiện nay là tạo ra sự hài hòa của đời sống văn hóa tinh thần cho mọi tầng lớp nhân dân trong đó có sự gắn kết tác động qua lại hài hòa giữa các hình thức văn hóa giữa tự nhiên, xã hội và bản thân cong người. Xây dựng và phát triển hệ sinh thái tinh thần ở Việt Nam hiện nay thực chất là hướng tới “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vừa kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội. Xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính; xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; thực hiện bình đẳng giới, chăm sóc và bảo vệ trẻ em”[18, tr.40-41]. Tất nhiên, để đảm bảo sự hài hòa trong sự phát triển bền vững, quá trình xây dựng và phát triển hệ sinh thái tinh thần ở Việt Nam hiện nay cũng không tách khỏi với quá trình đồng thời xây dựng và phát triển các hệ VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 11 sinh thái môi trường và sinh thái xã hội. Trong đó, cần phải coi sự xây dựng và phát triển các hệ sinh thái môi trường và sinh thái xã hội như là điều kiện tiên quyết và có tính quyết định để xây dựng và phát triển thành công hệ sinh thái tinh thần ở Việt Nam hiện nay. 6. Kết luận Mặc dù có một lịch sử các ý tưởng về môn học xuất hiện từ khá sớm nhưng với tính cách là một môn khoa học thì triết học sinh thái vẫn được coi là một trong những ngành học khá non trẻ trong hệ thống các khoa học triết học. Việc ra đời và phát triển của triết học sinh thái trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay là một xu hướng mang tính tất yếu khách quan bởi nó không chỉ thể hiện như một sự phát triển tất yếu của các tư duy triết học trong lịch sử mà còn là sự đáp ứng các nhu cầu về thực tiễn của nhân loại đang phải đối diện với các nguy cơ về sự biến đổi của khí hậu, về sự mất cân bằng giữa các hệ sinh thái trong sự phát triển. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và đề xuất các nguyên lý của triết học sinh thái trong bối cảnh hiện nay có ý nghĩa không chỉ về lý luận mà còn là vấn đề thực tiễn cấp bách góp phần tham gia giải quyết một số vấn đề mang tính “toàn cầu” hiện nay. Xây dựng và phát triển nền kinh tế - xã hội theo mô hình sinh thái bền vững ở Việt Nam hiện nay vừa là xu thế mang tính khách quan nhưng cũng là yêu cầu cấp bách trong phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, để vận dụng các nguyên lý của triết học sinh thái vào xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội theo mô hình sinh thái bền vững ở Việt Nam hiện nay, ngay từ bây giờ phải đồng bộ tiến hành các giải pháp quan trọng như đã phân tích. Tuy nhiên, yếu tố quan trọng hàng đầu hiện nay vẫn là thái độ nhận thức đúng đắn và sự quyết tâm thực hiện của các cấp, các ngành và bản thân mỗi người dân trong việc biến chiến lược xây dựng và phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước theo mô hình sinh thái bền vững từ mục tiêu trở thành hiện thực Tài liệu tham khảo [1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [2] Hà Thúc Minh (1996), Triết học cổ đại Hy Lạp. Nhà xuất bản Mũi Cà Mau. [3] Изд. Сов. Энциклопедия (1989), Философский энциклопедический cловарь . Москва. [4] C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [5] C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 42. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [6] C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 20. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [7] Hồ Sĩ Quý (2005), “Về đạo đức môi trường”. Tạp chí triết học số 9 (172). [8] Eugene C. Hargrove (1992), The animal rights, environmental ethics debate : The environmental perspective. New York : State university of New York. [9] Phương Lập Thiên (2005),“Triết học sinh thái Phật giáo và ý thức sinh thái hiện đại”, Tạp chí Huyền Trang Phật học nghiên cứu (Đài Loan), kỳ 2, trang 135 – 172, Nguồn: ngày 13/5/2015 [10] John Nolt (2015), Environmental ethics for the long term: An introduction. London. New York : Routledge, Taylor & Francis Group. [11] Phạm Thị Ngọc Trầm (2016), “Nghiên cứu triết học-xã hội về môi trường sinh thái Việt Nam”. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 (99). [12] Drengson, A. and Y. Inoue, eds. (1995) The Deep Ecology Movement: An Introductory Anthology. Berkeley: North Atlantic Publishers. [13] Guattari, Félix (Oct. 1992) “Pour une refondation des pratiques sociales”. In: Le Monde Diplomatique”. [14] C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 42. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [15] Lynn R. Kahle, Eda Gurel-Atay, Eds (2014). Communicating Sustainability for the Green Economy. New York: M.E. Sharpe. ISBN 978-0-7656-3680-5. [16] James, Paul; Magee, Liam; Scerri, Andy; Steger, Manfred B. (2015). Urban Sustainability in Theory and Practice:. London: Routledge.; Liam Magee; Andy Scerri; Paul James; Jaes A. Thom; Lin Padgham; Sarah Hickmott; Hepu Deng; Felicity Cahill (2013). "Reframing social sustainability reporting: Towards an engaged VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 12 approach". Environment, Development and Sustainability. Springer. [17] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nhà xuất bản CTQG, Hà Nội. [18] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nhà xuất bản CTQG, Hà Nội. [19] Phạm Công Nhất (2017). Phát triển kinh tế - xã hội theo mô hình sinh thái bền vững ở nước ta hiện nay. Tạp chí Cộng sản điện tử, cập nhật ngày 3/8/2017
File đính kèm:
- application_of_the_principles_of_ecological_philosophy_in_vi.pdf