Áp dụng thang Sigma trong đánh giá một số chỉ số chất lượng giai đoạn trước xét nghiệm

Các sai số liên quan đến quá trình trước xét nghiệm chiếm 70% lỗi của toàn bộ quá trình xét nghiệm, ảnh

hưởng tới 70% - 80% chẩn đoán của bác sỹ trên lâm sàng. Nghiên cứu sử dụng thang sigma để đánh giá các chỉ

số chất lượng cho giai đoạn trước xét nghiệm. Mẫu máu và phiếu chỉ đinh xét nghiệm cho các xét nghiệm hóa sinh,

công thức máu, và đông máu được thu thập tại Khoa Xét nghiệm – Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Thực hiện tính

toán và đánh giá giá trị sigma cho 5 chỉ số chất lượng bao gồm thông tin bệnh nhân, Chỉ định thiếu xét nghiệm, vỡ

hồng cầu, mẫu đông vón và sai thể tích. Trong thời gian 3 tháng, có tổng số 150790 mẫu và 68144 tờ chỉ định nhận

được từ tất cả các khoa phòng. Tỷ lệ sai sót lớn nhất gặp trong sai thể tích mẫu (0,6%), tỷ lệ sai sót thấp nhất gặp

trong mẫu đông vón (0,01%). Khoa cấp cứu (42,5%) và khoa khám bệnh (23,0%) có tỷ lệ sai sót gặp nhiều nhất.

pdf 7 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Áp dụng thang Sigma trong đánh giá một số chỉ số chất lượng giai đoạn trước xét nghiệm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Áp dụng thang Sigma trong đánh giá một số chỉ số chất lượng giai đoạn trước xét nghiệm

Áp dụng thang Sigma trong đánh giá một số chỉ số chất lượng giai đoạn trước xét nghiệm
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
1TCNCYH 130 (6) - 2020
Tác giả liên hệ: Ngô Diệu Hoa,
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 07/04/2020
Ngày được chấp nhận: 07/09/2020
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Kết quả xét nghiệm thường đóng vai trò thiết 
yếu trong chẩn đoán và quản lý bệnh.1 Các 
nghiên cứu cho thấy rằng hầu hết các kết quả 
sai bắt nguồn từ giai đoạn trước xét nghiệm.2 
Các lỗi trước xét nghiệm chiếm hơn 70% tổng 
số sai sót của PXN và tác động một cách có ý 
nghĩa về lâm sàng và kinh tế trong chăm sóc y 
tế. Kết quả là, giai đoạn trước xét nghiệm phải 
được giám sát chặt chẽ để PXN có thể đạt được 
mức độ hiệu năng thích hợp. Các chỉ số chất 
lượng là công cụ theo dõi hiệu năng hữu ích 
cho giai đoạn trước xét nghiệm trong quy trình 
xét nghiệm. Việc xác định một cách rõ ràng các 
chỉ số chất lượng được đánh giá như thế nào 
và việc phát triển các mức độ hiệu năng (như 
không thể chấp nhận, tối thiểu và mong muốn) 
hữu ích cho việc đánh giá hiệu năng PXN, đặc 
biệt là giai đoạn trước xét nghiệm. 
Six sigma là một phương pháp để kiểm 
soát chất lượng, và có thể đo lường hiệu năng 
phương pháp thông qua đánh giá các chỉ số 
chất lượng trước xét nghiệm, trong xét nghiệm 
và sau xét nghiệm. Six sigma cung cấp các 
nguyên lý và công cụ có thể ứng dụng cho 
các quy trình để đo lường tỷ lệ sai sót/ khiếm 
khuyết... 3,4 Giá trị Sigma bằng 6 nghĩa là có 
khoảng 3.4 lỗi (hay sai sót) trên mỗi một triệu khả 
năng gây lỗi; giá trị Sigma bằng 3 là có khoảng 
66807 lỗi (hay sai sót) trên mỗi một triệu khả 
năng gây lỗi và cần có hành động khắc phục và 
phòng ngừa. Giá trị sigma chỉ ra hiệu quả của 
phòng xét nghiệm trong việc quản lý quy trình 
chất lượng. Trong lĩnh vực y tế nói chung hay 
lĩnh vực xét nghiệm nói riêng phương pháp Six 
sigma đang được áp dụng và triển khai để cải 
tiến chất lượng dịch vụ. Các phòng xét nghiệm 
đặt ra mục tiêu cho các chỉ số chất lượng là đạt 
được mức 6 sigma và mức 3 sigma là mức tối 
thiểu chấp nhận được. Giá trị Six sigma thấp 
tương ứng với một chỉ số chất lượng kém và 
ÁP DỤNG THANG SIGMA TRONG ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ
 CHỈ SỐ CHẤT LƯỢNG GIAI ĐOẠN TRƯỚC XÉT NGHIỆM
Ngô Diệu Hoa1, , Phạm Thị Hương Trang1, Trịnh Thị Phương Dung1,2,
 Vũ Đức Anh1,2, Đặng Quang Huy1,2
1Trung tâm Kiểm chuẩn chất lượng xét nghiệm –Trường Đại học Y Hà Nội,
 2Khoa Kỹ thuật y học – Trường Đại học Y Hà Nội.
 Các sai số liên quan đến quá trình trước xét nghiệm chiếm 70% lỗi của toàn bộ quá trình xét nghiệm, ảnh 
hưởng tới 70% - 80% chẩn đoán của bác sỹ trên lâm sàng. Nghiên cứu sử dụng thang sigma để đánh giá các chỉ 
số chất lượng cho giai đoạn trước xét nghiệm. Mẫu máu và phiếu chỉ đinh xét nghiệm cho các xét nghiệm hóa sinh, 
công thức máu, và đông máu được thu thập tại Khoa Xét nghiệm – Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Thực hiện tính 
toán và đánh giá giá trị sigma cho 5 chỉ số chất lượng bao gồm thông tin bệnh nhân, Chỉ định thiếu xét nghiệm, vỡ 
hồng cầu, mẫu đông vón và sai thể tích. Trong thời gian 3 tháng, có tổng số 150790 mẫu và 68144 tờ chỉ định nhận 
được từ tất cả các khoa phòng. Tỷ lệ sai sót lớn nhất gặp trong sai thể tích mẫu (0,6%), tỷ lệ sai sót thấp nhất gặp 
trong mẫu đông vón (0,01%). Khoa cấp cứu (42,5%) và khoa khám bệnh (23,0%) có tỷ lệ sai sót gặp nhiều nhất. 
Từ khóa: Six Sigma, chỉ số chất lượng, trước xét nghiệm
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2 TCNCYH 130 (6) - 2020
tần suất lỗi xảy ra thường xuyên5. Tại Việt Nam 
thang sigma chủ yếu được dùng cho giai đoạn 
trong xét nghiệm, có rất ít các nghiên cứu sử 
dụng thang sigma trong đánh giá giai đoạn 
trước xét nghiệm. Do đó nghiên cứu được thực 
hiện với mục đích đánh giá một số chỉ số chất 
lượng giai đoạn trước xét nghiệm bằng phương 
pháp Six sigma.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Phương pháp
Nghiên cứu thực nghiệm trong phòng xét 
nghiệm
Thời gian nghiên cứu: Tháng 1- 3/2019
Thu thập các chỉ số chất lượng:
Chỉ định sai thông tin bệnh nhân: số lượng 
chỉ định nhận dạng sai bệnh nhân, số lượng chỉ 
định nhận dạng sai bệnh nhân do nhân viên y 
tế, số lượng mẫu bị mất hoặc không có theo chỉ 
định, số lượng mẫu dán nhãn sai.
Chỉ định thiếu dịch vụ trên hệ thống: số 
lượng chỉ định không đưa vào hệ thống thông 
tin.
Mẫu vỡ hồng cầu: Các mẫu bệnh phẩm có 
hiện tượng tan máu quan sát được bằng mắt 
thường khi huyết tương xuất hiện màu hồng 
đến đỏ sau khi ly tâm ống máu chống đông bởi 
heparin
Mẫu đông, vón: các mẫu bệnh phẩm được 
đựng trong các ống chống đông bằng heparin, 
natri citrate, EDTA nhưng vẫn xảy ra hiện tượng 
đông vón, quan sát bằng mắt thường có cục 
đông vón sau khi ly tâm hoặc có hiện tượng kết 
tập tiểu cầu, kiểm tra bằng ống làm xét nghiệm 
huyết học khi số lượng tiểu cầu bất thường
Mẫu thiếu, thừa thể tích: Các mẫu bệnh 
phẩm được chống đông bằng natri citrate làm 
xét nghiệm đông máu lấy sai thể tích theo yêu 
cầu, vượt quá 2ml.
Tính toán giá trị sigma cho các QI này dựa 
trên tỷ lệ DPM với công thức: DPM = (số sai 
sót x 1 000 000)/tổng số mẫu hoặc chỉ định. 
Chuyển đổi tỷ lệ DPM sang sigma theo https://
www.westgard.com/six-sigma-calculators.htm.
2. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu thực hiện vì mục đích khoa học, 
không gây nguy hại cho con người. Mọi thông 
tin của đối tượng đều được giữ bí mật tuyệt đối: 
thực hiện mã hóa bệnh nhân bằng mã code.
III. KẾT QUẢ
Bảng 1. Bảng số lượng chỉ định xét nghiệm và mẫu bệnh phẩm.
Không xảy ra lỗi Xảy ra lỗi Tỷ lệ (%)
Chỉ định xét nghiệm 68105 39 0,057
Mẫu bệnh phẩm 150542 248 0,165
Đánh giá đầu vào của giai đoạn trước xét nghiệm là các lỗi trên chỉ định xét nghiệm xảy ra 39 
trường hợp chiếm tỷ lệ 0,057% số chỉ định xét nghiệm thấp hơn tỷ lệ mẫu bệnh phẩm xảy ra lỗi, số 
lượng mẫu bệnh phẩm xảy ra lỗi là 248 mẫu chiếm 0.165% tổng số mẫu bệnh phẩm thu thập được.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
3TCNCYH 130 (6) - 2020
Biểu đồ 1. Biểu đồ tỷ lệ số lỗi của các chỉ số chất lượng.
Trong các lỗi thu thập được của giai đoạn trước phân tích, chiếm tỷ lệ cao nhất là lỗi vỡ hồng cầu 
chiếm 62% ; chiếm tỷ lệ thấp hơn lỗi vỡ hồng cầu 40% là lỗi thừa, thiếu thể tích ống đông máu; lỗi 
thiếu dịch vụ trên hệ thống chiếm 9%, chiếm tỷ lệ thấp nhất là lỗi đông vón chiếm 3%.
Bảng 2. Số lỗi và mức sigma của các chỉ số chất lượng trong giai đoạn trước xét nghiệm
Chỉ số chất lượng Số lỗi
Số lượng 
chỉ định, 
mẫu
Giá trị 
phần trăm
DPM
Giá trị 
Sigma
Đánh giá
Mẫu vỡ hồng cầu 176 71538 0,25 2460 4,4 Tốt
Mẫu đông vón 9 119575 0,01 75 5,2 Rất tốt
Mẫu thừa, thiếu thể tích 63 10585 0,60 5952 4,0 Tốt
Chỉ định thiếu dịch vụ trên 
hệ thống
27 68144 0,04 396 4,8 Tốt
Chỉ định sai thông tin 
bệnh nhân
12 68144 0,02 176 5,1 Rất tốt
Đạt mức đánh giá rất tốt trong thang Six sigma là hai chỉ số chất lượng mẫu đông vón và chỉ định 
sai thông tin bệnh nhân với giá trị Sigma cao nhất là 5,2 của chỉ số chất lượng mẫu đông vón và 5,1 
của chỉ số chỉ định sai thông tin.
Ba chỉ số chất lượng được đánh giá ở mức tốt là các chỉ số chất lượng: mẫu vỡ hồng cầu, mẫu 
thừa thể tích và chỉ định thiếu dịch vụ với giá trị sigma thấp nhất là 4,0 của chỉ số thừa thể tích, đạt 
giá trị sigma cao hơn là chỉ số mẫu vỡ hồng cầu; chỉ số chất lượng chỉ định thiếu dịch vụ trên hệ 
thống gần đạt được đánh giá rất tốt với giá trị sigma là 4,8. 
4% 3%
22%
9%
62%
Mẫu vỡ hồng cầu
Mẫu đông vón
Mẫu sai thể tích
Mẫu thiếu dịch vụ
Mẫu sai thông tin
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
4 TCNCYH 130 (6) - 2020
Biểu đồ 2. Biểu đồ Pareto tỷ lệ mẫu lỗi tại các khoa phòng
Số lỗi xảy ra nhiều nhất tại khoa cấp cứu chiếm 42,7%, thấp hơn là khoa khám bệnh với tỷ lệ lỗi 
là 23,1%. Các khoa phòng khác đều có tỷ lệ lỗi gần bằng nhau và dưới 10%.
0
20
40
60
80
100
120
0
20
40
60
80
100
120
140
Cấp 
cứu
Khám 
bệnh
Nội 
tổng 
hợp
Trung 
tâm 
Tim 
mạch
Nội tiết 
Hô hấp
Ung 
bướu 
và
CSGN
Ngoại 
tổng 
hợp
Trung
tâm Y
Khoa
CSSK 
Cộng 
đồng
KCB
theo
YC
Khoa 
phòng 
khác
%
S
ố
lư
ợ
ng
 m
ẫ
u 
lỗ
i
Số lượng mẫu
Tỷ lệ lũy tiến
Khoa/ Phòng
IV. BÀN LUẬN
Kết quả xét nghiệm thường đóng vai trò 
thiết yếu trong chẩn đoán và quản lý bệnh. Các 
nghiên cứu cho thấy hầu hết các kết quả sai 
bắt nguồn từ giai đoạn trước xét nghiệm. Các 
sai sót trước xét nghiệm chiếm hơn 70% tổng 
sai sót của phòng xét nghiệm và tác động một 
cách có ý nghĩa về lâm sàng, kinh tế và chăm 
sóc y tế. Do đó, giai đoạn trước xét nghiệm phải 
được giám sát chặt chẽ để PXN có thể đạt được 
mức độ hiệu năng thích hợp. Sử dụng các chỉ 
số chất lượng giai đoạn trước xét nghiệm để 
tính toán thang Six Sigma là một công cụ hữu 
hiệu để xác định và đánh giá hiệu năng của quy 
trình xét nghiệm.6 Dự án IFCC WG-LEPS đã 
phát triển 25 chỉ số chất lượng cho 3 giai đoạn 
(trước xét nghiệm, trong xét nghiệm và sau xét 
nghiệm) của quy trình xét nghiệm PXN. Trong 
đó, 16 chỉ số tập trung vào giai đoạn trước xét 
nghiệm.5-7 Nghiên cứu của chúng tôi đã lựa 
chọn 5 chỉ số chất lượng dựa vào loại và tần 
suất lỗi trước xét nghiệm được phát hiện ở 
khoa xét nghiệm.
Hầu hết nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
mức độ hiệu năng tối ưu. Giá trị sigma của các 
mẫu vỡ hồng cầu là 4.4 đạt mức tốt, kết quả 
có sự tương đồng với báo cáo của Carralo và 
cộng sự (2012), Grecu và cộng sự (2014) diễn 
ra trong thời gian ba tháng với số lượng chỉ 
định xét nghiệm 7615 chỉ định, tương ứng với 
17514 mẫu bệnh phẩm và trong một năm có 
tổng số lượng chỉ định là 88655, tổng số mẫu 
bệnh phẩm là 168728 thu được cũng có giá trị 
six sigma cho chỉ số chất lượng vỡ hồng cầu là 
4,3 và 4,2 tương ứng đạt mức sigma tốt.7,8 Vỡ 
hồng cầu là nguyên nhân thường gặp nhất để 
từ chối mẫu đồng thời vẫn luôn là thách thức 
với PXN cấp cứu. Trong nghiên cứu của chúng 
tôi, nếu có bất cứ dấu hiệu nào của vỡ hồng 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
5TCNCYH 130 (6) - 2020
cầu được phát hiện bởi mắt thường, mẫu sẽ 
bị từ chối, và nhân viên lấy mẫu được gọi để 
lấy mẫu mới, vỡ hồng cầu ảnh hưởng đến rất 
nhiều xét nghiệm, khiến kết quả không phù hợp 
cho mục đích chẩn đoán. Vỡ hồng cầu có thể 
xảy ra do nhiều nguyên nhân như sử dụng kim 
nhỏ, lắc trộn mẫu quá mạnh, áp lực âm quá lớn 
khi hút máu vào bơm tiêm.9 Để đạt được giá trị 
sigma cao hơn cho chỉ số này cần giảm thiểu 
tối đa các trường hợp gây vỡ hồng cầu trong 
mẫu bệnh phẩm tại các khoa phòng. Các quy 
trình chuẩn và sổ tay lấy mẫu được phòng xét 
nghiệm thiết lập giảm thiểu tối đa các trường 
hợp mẫu bệnh phẩm bị vỡ hồng cầu gây ảnh 
hưởng đến kết quả xét nghiệm và cần thiết có 
những khóa đào tạo, nâng cao tay nghề cho 
nhân viên y tế. Ngoài ra việc chuẩn bị bệnh 
nhân, sử dụng các thiết bị y tế đạt chất lượng 
tốt như sử dụng đúng loại kim lấy máu cũng 
làm giảm được đáng kể lỗi này, 
Các mẫu bệnh phẩm sử dụng cho xét 
nghiệm đông máu sử dụng chất chống đông là 
natri citrat cần lấy thể tích mẫu máu chính xác 
2ml để đạt được tỷ lệ chống đông thích hợp, 
đảm bảo kết quả đông máu được chính xác.10 
Nghiên cứu đã theo dõi chỉ số chất lượng mẫu 
bệnh phẩm sai thể tích trên tổng các mẫu bệnh 
phẩm dùng cho xét nghiệm đông máu đạt giá 
trị phần trăm là 0,6%, mức sigma tốt với giá 
trị sigma là 4,0. Giá trị Sigma của chỉ số chất 
lượng này thấp hơn giá trị sigma là 4,8 cũng 
trong báo cáo của Grecu và cộng sự do chỉ số 
chất lượng mẫu sai thể tích được trong nghiên 
cứu trên được theo dõi trên toàn bộ các mẫu 
bệnh phẩm có sử dụng chất chống đông. Với 
giá trị six sigma là 4,0 cho chỉ số chất lượng này 
phòng xét nghiệm cần thiết đưa ra tầm quan 
trọng của việc lấy đúng thể tích mẫu trong sổ 
tay lấy mẫu hoặc quy trình lấy mẫu chuẩn để 
các nhân viên lấy mẫu hiểu rõ và lấy chính xác 
thể tích bệnh phẩm yêu cầu. Chỉ số chất lượng 
này là dễ dàng cải thiện để đạt được mức sigma 
cao hơn nữa.
Chỉ số chất lượng mẫu đông vón đạt mức 
sigma rất tốt với giá trị sigma là 5,2, đạt mức 
cao hơn mức sigma của chỉ số này trong báo 
cáo của Grecu và cộng sự đạt mức tốt.8 Nhờ 
có hệ thống vận chuyển mẫu bệnh phẩm ngày 
càng được nâng cấp, đầu tư để có thể vận 
chuyển mẫu bệnh phẩm đến phòng xét nghiệm 
nhanh nhất ngoài ra chất lượng các ống chống 
đông máu cũng được kiểm soát nên tỷ lệ mẫu 
bị đông vón đã giảm đáng kể, giá trị sigma của 
chỉ số này đạt mức rất tốt.
Đạt giá trị sigma ở mức rất tốt với giá trị 
sigma là 5,0 của chỉ số chất lượng chỉ định sai 
thông tin bệnh nhân. Theo báo cáo của Grecu 
và Marin cũng cho giá trị sigma tương tự là 
5,3 ở mức rất tốt và 4,9 cũng đạt mức tốt.8,11 
Sự phát triển của hệ thống thông tin phòng xét 
nghiệm đã làm giảm tối đa lỗi xảy ra. Hệ thống 
thông tin phòng xét nghiệm được triển khai đến 
hầu hết các Bệnh viện, mỗi bệnh nhân được 
mã hóa bằng một mã bệnh án và một mã bệnh 
phẩm riêng biệt, cập nhật đầy đủ các thông tin 
trên chỉ định, trên bệnh phẩm cũng như trên 
hệ thống thông tin. Bệnh nhân được mã hóa 
cùng tên và tuổi, quê quán tránh nhầm lẫn trong 
nhận dạng bệnh nhân. Hệ thống thông tin liên 
kết từ các chỉ định lâm sàng của bác sĩ đến các 
máy móc trong phòng xét nghiệm nên tránh bỏ 
sót các chỉ định được yêu cầu thực hiện. Chỉ 
số chất lượng chỉ định thiếu thông tin trên hệ 
thống cũng đạt mức sigma tốt với giá trị sigma 
là 4,8. Vẫn xảy ra các trường hợp lỗi khi không 
cập nhật đầy đủ chỉ định xét nghiệm của bệnh 
nhân lên hệ thống thông tin nhầm thông tin mã 
hóa của các bệnh nhân gây ra những lỗi trong 
giai đoạn trước xét nghiệm. Những lỗi này đều 
có thể khắc phục được bởi từng nhân viên y 
tế khi thực hiện thêm các bước trong quy trình 
như kiểm tra chéo các yêu cầu, kiểm tra lại một 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
6 TCNCYH 130 (6) - 2020
lần nữa để tránh bỏ sót các yêu cầu, đem lại lợi 
ích cho bệnh nhân. 
Sử dụng biểu đồ Pareto để đánh giá tỷ lệ xảy 
ra các lỗi của các chỉ số chất lượng tại các khoa 
phòng của Bệnh viện Đại học Y Hà Nội nhận 
thấy 80% lỗi là xảy ra tại 5 khoa/phòng: khoa 
cấp cứu, khoa khám bệnh, khoa nội tổng hợp, 
trung tâm tim mạch, khoa nội tiết – hô hấp. Lỗi 
xảy ra nhiều nhất tại khoa cấp, khu vực nhân 
viên y tế luôn phải làm việc với cường độ và 
áp lực cao, bệnh nhân trong tình trạng không 
ổn định nhất nên rất dễ xảy ra các sai sót ảnh 
hưởng đến các chỉ số chất lượng cho giai đoạn 
trước xét nghiệm. Tại khoa khám bệnh, bệnh 
nhân ở trạng thái ổn định hơn tuy nhiên khoa 
luôn có số bệnh nhân đến khám là rất lớn nên tỷ 
lệ lỗi xảy ra tại khoa phòng này cũng chiếm một 
lệ cao là 23%. Theo quy tắc 80/20 của Pareto 
cần tập trung vào cải thiện ở 20% nguyên nhân 
để 80% lỗi xảy ra sẽ được loại bỏ.12 Do đó nên 
có sự quan tâm ưu tiên cải thiện chất lượng 
tại các khoa phòng này để giảm số lỗi xảy ra 
xuống mức thấp nhất.
Sau khi so sánh kết quả nghiên cứu với 
các báo cáo, nghiên cứu đã được thực hiện 
trên thế giới trước đây nhận thấy kết quả của 
các chỉ số chất lượng cho giai đoạn trước xét 
nghiệm được theo dõi đều đạt được giá trị 
cao hơn hoặc tương đồng với các phòng xét 
nghiệm trên thế giới.7,8,11 Chứng tỏ phòng xét 
nghiệm nhà A2 của Bệnh viện Đại học Y Hà 
Nội đã có sự quan tâm và thực hiện việc kiểm 
soát chất lượng và đảm bảo chất lượng cho giai 
đoạn trước xét nghiệm. Đảm bảo chất lượng 
và cải tiến chất lượng là việc làm mà phòng xét 
nghiệm cần được thực hiện thường xuyên, liên 
tục bằng những hành động cụ thể như áp dụng 
các chỉ số chất lượng để đánh giá các quá trình 
của phòng xét nghiệm, thiết lập các quy trình 
chuẩn, hướng dẫn an toàn và các cảnh báo đối 
với các khoa lâm sàng để số lỗi giảm xuống tối 
đa, kết quả đem lại là đạt được một giá trị six 
sigma cao hơn nữa khi áp dụng phương pháp 
Six Sigma để đánh giá và cải tiến không ngừng.
Vấn đề về các chỉ số chất lượng cho giai 
đoạn trước phân tích không phải là mới, tuy 
nhiên Tại Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu 
được thực hiện nhằm theo dõi các lỗi trước xét 
nghiệm. Có lẽ đóng góp lớn nhất của nghiên 
cứu đưa ra một hướng mới áp dụng cho các 
nghiên cứu trên toàn quốc về quản lý chất 
lượng giai đoạn trước xét nghiệm.Các phát 
hiện trong nghiên cứu đóng góp một phần nhỏ 
vào công tác cảnh báo chất lượng giai đoạn 
trước xét nghiệm cho các phòng xét nghiệm.
Các nghiên cứu tương tự triển khai trong tương 
lai có thể mở rộng quy mô trong và ngoài phòng 
xét nghiệm, sử dụng nhiều chỉ số chất lượng để 
đưa ra kết quả chính xác, có ý nghĩa 
V. KẾT LUẬN
Trong đánh giá hiệu năng giai đoạn trước 
xét nghiệm, PXN cấp cứu có thể sử dụng các 
chỉ số chất lượng, bằng tỷ lệ phần trăm hoặc 
thang sigma. Nghiên cứu đã đánh giá hiệu 
năng giai đoạn trước xét nghiệm trong khoa xét 
nghiệm các chỉ số chất lượng theo dõi đều đạt 
được kết quả tốt và rất tốt. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Westgard JO, Darcy T. The truth about 
quality: medical usefulness and analytical 
reliability of laboratory tests. Clinica Chimica 
Acta. 2004;346(1):3-11.
2. Plebani M, Ceriotti F, Messeri G, 
Ottomano C, Pansini N, Bonini P. Laboratory 
network of excellence: enhancing patient safety 
and service effectiveness. Clin Chem Lab Med. 
2006;44(2):150-160.
3. Lippi G, Chance JJ, Church S, et al. 
Preanalytical quality improvement: from dream 
to reality. Clin Chem Lab Med. 2011;49(7):1113-
1126.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
7TCNCYH 130 (6) - 2020
4. Llopis MA, Trujillo G, Llovet MI, et 
al. Quality indicators and specifications for 
key analytical-extranalytical processes in the 
clinical laboratory. Five years’ experience using 
the Six Sigma concept. Clin Chem Lab Med. 
2011;49(3):463-470.
5. Westgard JO. Six Sigma quality design 
and control. 2nd ed. Madison: Westgard QC. 
Inc; 2006.
6. Plebani M, Sciacovelli L, Aita A, 
Chiozza ML. Harmonization of pre-analytical 
quality indicators. Biochem Med (Zagreb). 
2014;24(1):105-113.
7. Carraro P, Zago T, Plebani M. Exploring 
the Initial Steps of the Testing Process: 
Frequency and Nature of Pre-Preanalytic Errors 
Clinical Chemistry. 2012;58(3): 638–642.
8. Grecu DS, Vlad DC, Dumitrascu V. 
Quality Indicators in the Preanalytical Phase 
of Testing in a Stat Laboratory Laboratory 
Medicine. 2014;45(1):74–81.
9. Azman WNw, Omar J, Koon TS, Ismail 
TST. Hemolyzed Specimens: Major Challenge 
for Identifying and Rejecting Specimens in 
Clinical Laboratories. Oman Med J. 2019 
34(2):94–98.
10. Bộ Y Tế. Hướng dẫn lấy mẫu, đóng gói, 
bảo quản và vận chuyển mẫu bệnh phẩm. Hà 
Nội: NXB Y Học; 2017.
11. Giménez-Marín A, Rivas-Ruiz F, 
Pérez-Hidalgo MdM, Molina-Mendoza P. Pre-
analytical errors management in the clinical 
laboratory: a five-year study. Biochem Med 
(Zagreb). 2014;24(2):248 - 257.
12. Tague NR. The Quality Toolbox. 2nd ed. 
Wisconsin: American Society for Quality,Quality 
Press; 2005.
Summary
IMPLEMENTING SIX SIGMA IN MONITORING SEVERAL 
QUALITY INDICATORS FOR PRE- ANALYTICAL PHASE
Laboratory errors related to the pre-analytical phase account for 70% of errors of the total testing 
process and affect 70 - 80% of clinical diagnosis. This research utilized the Six Sigma scale in 
the evaluation of various quality indicators of the pre-analytical phase. Blood samples and request 
forms for clinical chemistry, hematology, and coagulation tests were collected at the Clinical 
Laboratory Department of Hanoi Medical University Hospital. Sigma values were calculated and 
evaluated for five quality indicators including: patients’ information, missings test on the request 
form, hemolysed samples, clotted sample and incorrect blood volume. During the 3 months period 
of the project, there was a total of 150790 samples and 68144 request forms collected from all 
departments within the hospital. Incorrect blood volume and clotted samples were found to be the 
highest and lowest of errors, 0,6% and 0.01% respectively. Departments with the highest error 
percentage were the Emergency department (42.5%) and the Outpatient department (23.0%).
Keywords: Six sigma, quality improvement, preanalytical

File đính kèm:

  • pdfap_dung_thang_sigma_trong_danh_gia_mot_so_chi_so_chat_luong.pdf