Áp dụng thang điểm IHC4 để phân tầng nguy cơ ung thư vú có thụ thể nội tiết dương tính giai đoạn I - II
Thang điểm IHC4 (Immunohistochemistry 4) được tính toán dựa trên 4 dấu ấn hóa mô miễn dịch (HMMD)
là ER, PR, HER-2 và Ki67 của Cuzick và cs 2011 giúp phân tầng nguy cơ ung thư vú ở những bệnh nhân có
thụ thể nội tiết dương tính nhằm tiên lượng và cá thể hóa trong kế hoạch điều trị bổ trợ.
Mục tiêu: Nhận xét một số mối liên quan giữa các mức nguy cơ và một số đặc điểm giải phẫu bệnh-lâm
sàng (GPB - LS).Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 164 bệnh nhân ung thư vú có thụ thể nội tiết dương
tính giai đoạn I - II được nghiên cứu để phân nhóm nguy cơ, đánh giá một số đặc điểm GPB - LS.
Bạn đang xem tài liệu "Áp dụng thang điểm IHC4 để phân tầng nguy cơ ung thư vú có thụ thể nội tiết dương tính giai đoạn I - II", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Áp dụng thang điểm IHC4 để phân tầng nguy cơ ung thư vú có thụ thể nội tiết dương tính giai đoạn I - II
VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 490 ÁP DỤNG THANG ĐIỂM IHC4 ĐỂ PHÂN TẦNG NGUY CƠ UNG THƯ VÚ CÓ THỤ THỂ NỘI TIẾT DƯƠNG TÍNH GIAI ĐOẠN I - II NGUYỄN VĔN CHỦ1, CHU THỊ TRANG2 TÓM TẮT Thang điểm IHC4 (Immunohistochemistry 4) được tính toán dựa trên 4 dấu ấn hóa mô miễn dịch (HMMD) là ER, PR, HER-2 và Ki67 của Cuzick và cs 2011 giúp phân tầng nguy cơ ung thư vú ở những bệnh nhân có thụ thể nội tiết dương tính nhằm tiên lượng và cá thể hóa trong kế hoạch điều trị bổ trợ. Mục tiêu: Nhận xét một số mối liên quan giữa các mức nguy cơ và một số đặc điểm giải phẫu bệnh-lâm sàng (GPB - LS).Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 164 bệnh nhân ung thư vú có thụ thể nội tiết dương tính giai đoạn I - II được nghiên cứu để phân nhóm nguy cơ, đánh giá một số đặc điểm GPB - LS. Kết quả nghiên cứu: Nhóm nguy cơ cao chiếm tỉ lệ 51.2%, nhóm nguy cơ thấp chiếm 9.8%. Trong các bệnh nhân ung thư vú nguy cơ cao theo thang điểm IHC4, bệnh nhân ở giai đoạn II chiếm tỉ lệ cao nhất (38.1%), đa số mô u có độ mô học cao, có xâm nhập mạch, số lượng hạch di cĕn nhiều, chỉ số tiên lượng Nottingham đa số là trung bình và xấu (29.3% và 12.8%); ngược lại ở những bệnh nhân ung thư vú nguy cơ thấp, các tỉ lệ này đều thấp hơn; sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p >0.05. Tỉ lệ sống thêm của bệnh nhân nhóm nguy cơ thấp, trung bình, cao lần lượt là 100%, 100%, 87.5% (p = 0.352>0.05). Kết luận: Ung thư vú nguy cơ thấp thường kết hợp với các yếu tố tiên lượng thấp, và ung thư vú nguy cơ cao thường kết hợp với các yếu tố tiên lượng tồi. Bệnh nhân có giá trị IHC4 cao có xu hướng có thời gian sống thêm toàn bộ ngắn hơn. Từ khóa: Ung thư vú, thang điểm IHC4, phân tầng nguy cơ, thụ thể nội tiết dương tính, giai đoạn I - II. SUMMARY Application of IHC4 score for risk stratification of hormone receptor-positive breast cancer stage I - II. The IHC4 score (Immunohistochemistry 4) was calculated based on four common biomarkers: ER, PR, HER-2 and Ki67, established by Cuzick et al in 2011, stratified personalized risk to direct appropriate therapy. Purpose: To evaluate risk categories and relation to some clinicopathlogical features in breast cancer. Methods: One hundred sixty-four hormone receptor-positive breast cancer patients stage I - II were divided into risk categories and evaluatex of some clinicopathological features. Results: The high - risk group accounts for 51.2%, the low-risk group accounts for 9.8%. The age group 50 - 59 is a common age among groups. In high- risk breast cancer patients, the proportion of patients in stage II is high (38.1%), most tumors have high rate in histological grade, lymphovascular invasion, metastatic lymph node status, and the Nottingham prognosis index mostly are average and bad values (29.3% and 12.8%); in contrast, in low - risk breast cancer patients, these were lower; this difference is not statistically significant with p > 0.05. The overall survival rate of patients at low - medium - and high - risk IHC4 were 100%, 100%, 87.5% (p = 0.352>0.05). Conclusion: Low-risk breast cancer is often associated with low prognostic factors, and high-risk breast cancer is often associated with poor prognostic factors. Patients with IHC4 high risk tend to have a shorter overall survival time. Key words: Breast cancer, Imunohistochemistry 4 score, risk stratification, hormone receptor possitive, stage I - II. 1 TS.BS. Bệnh viện K 2 BS. Đại học Y Hà Nội VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 491 ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư vú (UTV) là loại ung thư thường gặp nhất, là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư ở nữ giới ở Việt Nam cũng như trên toàn thế giới.Theo GLOBOCAN nĕm 2018, trên toàn thế giới có khoảng 2.088.849 trường hợp UTV mới mắc và 626679 trường hợp tử vong do UTV; tại Việt Nam tỉ lệ này lần lượt là 15229 và 6103 trường hợp[1,2]. Các đặc điểm lâm sàng, giải phẫu bệnh có vai trò quan trọng trong chẩn đoán, điều trị và tiên lượng. Theo Ủy ban phòng chống ung thư Hoa Kỳ (AJCC) lần thứ 8, phân loại giai đoạn dựa vào TNM, giai đoạn u, HER-2, ER, PR, các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tiên lượng ở bệnh nhân giai đoạn I, II có thời gian sống không tái phát xa, thời gian sống không bệnh khá cao, so với giai đoạn III trở đi. Gần đây, vấn đề tiên lượng các bệnh nhân UTV ngày càng được quan tâm và nghiên cứu nhiều hơn nhằm giúp các nhà lâm sàng và giải phẫu bệnh có nhiều phương tiện để có thể tiên lượng chính xác hơn các bệnh nhân UTV. Các yếu tố như kích thước u, độ mô học (ĐMH), tình trạng di cĕn hạch là những yếu tố kinh điển để tiên lượng UTV. Nhờ sự phát triển của nhiều kỹ thuật mới đặc biệt là HMMD được áp dụng rộng rãi, các dấu ấn HMMD như ER, PR, HER-2, Ki67 được ứng dụng trong việc phân loại, điều trị UTV hiệu quả hơn.Với sự tiến bộ trong sàng lọc, một số lượng lớn u kích thước nhỏ có thụ thể estrogen dương tính (ER dương tính) với tiên lượng tốt được chẩn đoán.Tuy nhiên, các dấu ấn hiện tại không cho phép dự đoán chính xác về khả nĕng tái phát. Do đó, cần cải tiến và nghiên cứu để xác định rõ những người có nguy cơ thấp để đảm bảo không cần sử dụng hóa trị và tránh các tác dụng phụ đi kèm của chúng. Việc phân tầng nguy cơ cá thể hóa với liệu pháp điều trị thích hợp ngày càng quan trọng.Nhiều xét nghiệm đa gen đã được phát triển với mục đích phân biệt những bệnh nhân sẽ tái phát sớm bằng liệu pháp nội tiết bổ trợ, bao gồm cả Prosigna®, Oncotype DX®, EndoPredict® và Index Cancer Cancer Index™, tuy nhiên đòi hỏi kĩ thuật, chi phí cao. Nĕm 2011, Cuzick và cộng sự đã thiết lập thang điểm IHC4 (Immuno-histochemistry 4)được tính toán dựa trên 4 dấu ấn HMMD là ER, PR, HER-2 và Ki67, với cách tính toán đơn giản và chi phí thấp, nhằm tiên lượng thời gian tái phát của bệnh nhân[3]. Mối quan hệ giữa các tín hiệu đa gen khác liên quan đến tiên lượng trong ung thư vú ER + và đáp ứng với hóa trị liệu bổ trợ mới cũng đã được kiểm tra bởi các nghiên cứu khác, nhiều nghiên cứu đã cho thấy thang điểm IHC4 cao hơn có liên quan đến tỉ lệ bệnh nhân khỏi đáp ứng hoàn toàn trên giải phẫu bệnh (pCR) cao hơn do đó phù hợp với kết quả của các nghiên cứu khác rằng bệnh nhân có nguy cơ cao hơn, theo ước tính từ xét nghiệm gen, đáp ứng tốt hơn với hóa trị. Tuy nhiên, các nghiên cứu về thang đểm IHC4 chưa nhiều, ở Việt Nam hầu như chưa có nghiên cứu nào về vấn đề này. Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài: “Áp dụng điểm IHC4 để phân tầng nguy cơ ung thư vú có thụ thể nội tiết dương tính giai đoạn I-II”, với mục tiêu: Nhận xét một số mối liên quan giữa các mức nguy cơ và một số đặc điểm GPB - LS. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu trên khối nến và hồ sơ bệnh án của 164 bệnh nhân ung thư vú xâm nhập có thụ thể nội tiết dương tính giai đoạn I, II phẫu thuật tại Bệnh viện K, từ 01/2017 đến tháng 12/2018. Tiêu chuẩn lựa chọn Có ghi nhận đầy đủ các dữ kiện: họ tên, tuổi, ngày vào viện, kinh nguyệt, vị trí khối u, chẩn đoán lâm sàng và giai đoạn lâm sàng I - II. Được phẫu thuật cắt tuyến vú và vét hạch. Khối u vú nguyên phát và chưa được điều trị hóa chất trước mổ cắt u. Có chẩn đoán mô bệnh học là ung thư biểu mô tuyến vú xâm nhập. Có khối nến đủ mẫu để nhuộm HMMD và thụ thể nội tiết dương tính. Tiêu chuẩn loại trừ Không đáp ứng được các tiêu chuẩn chọn trên. Ung thư biểu mô tuyến vú tại chỗ. Ung thư vú tái phát hoặc ung thư cơ quan khác di cĕn tới vú. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang hồi cứu. Cỡ mẫu: Chúng tôi tiến hành chọn mẫu thuận tiện, lấy toàn bộ các bệnh nhân ung thư vú thỏa mãn tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ, được mổ tại bệnh viện K cơ sở Quán Sứ từ tháng 1/2017 đến 12/2018. Biến số, chỉ số Đánh giá kết quả nhuộm HMMD: ER, PR, Her2/neu, Ki67 theo hướng dẫn. Kết quả định lượng các dấu ấn HMMD sau đó sử dụng thuật toán để tính điểm IHC4 dựa vào công thức: IHC4 = 94.7 x [- 0.1 ER10 – 0.079 PR10 + 0.586 HER2 + 0.240 x ln (1 + 10 x Ki67)] VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 492 ER10 và PR10 tính điểm dựa vào phương pháp H-score cải biên = Tỉ lệ (%) x cường độ (từ 0 đến 300 điểm) chia cho 10. HER2 được coi là dương tính nếu nhuộm IHC là 3+, các trường hợp Her2 (2+) được xét nghiệm FISH. Điểm Ki67 tính bằng tỉ lệ nhân tế bào bắt màu với Ki67nhân với 0.4. Điểm IHC4 được phân loại: + Nguy cơ thấp: ≤ -30 + Nguy cơ trung bình: -30 ->30 + Nguy cơ cao: ≥30 - Các thông số GPB-LS: + Tuổi bệnh nhân: Nhóm tuổi <40, 40 - 49, 50 - 59, 60 - 69 và ≥70 tuổi. Tính tuổi trung bình. + Tình trạng kinh nguyệt: tiền mãn kinh ≤ 51 và sau mãn kinh >51 (theo định nghĩa của Dratva và cs). + Giai đoạn bệnh: Từ I - II theo phân loại của AJCC 8. + Bệnh nhân có thụ thể nội tiết dương tính khi dương tính với ER và, hoặc PR. + Độ mô học: I, II, III. + Chỉ số Nottingham được phân loại Nhóm tiên lượng tốt ≤ 3.4 Nhóm tiên lượng trung bình 3.4 -> 5.4 Nhóm tiên lượng xấu: >5.4 + Tình trạng hạch: có hoặc không di cĕn hạch, nhóm hạch (0, ≤3 và >3 hạch). + Xâm nhập mạch. + Số đợt điều trị hóa chất. Phân tích số liệu Các trường hợp nghiên cứu được ghi nhận đầy đủ thông tin và mã hóa dữ liệu. Xử lý số liệu trên phần mềm SPSS 20.0. Áp dụng test khi bình phương để so sánh hai hoặc nhiều tỉ lệ, tính giá trị p. Các phép so sánh có p < 0.05 được coi là có ý nghĩa thống kê. KẾT QUẢ Bảng 1. Mối liên quan giữa các mức nguy cơ và một số đặc điểm GPB - LS. n (%) Nguy cơ thấp Nguy cơ trung bình Nguy cơ cao p n (%) n (%) n (%) 16 (9.8) 64 (39.0) 84 (51.2) Nhóm tuổi < 40 17 (10.4) 2 (12.5) 4 (6.2) 11 (13.1) 0.144 40 - 49 42 (25.6) 3 (18.8) 12 (18.8) 27 (32.1) 50 - 59 58 (35.4) 4 (25.0) 25(39.1) 29 (34.5) 60 - 69 32 (19.5) 6 (37.5) 14 (21.9) 12 (14.3) ≥70 15 (9.1) 1 (6.2) 9 (14.1) 5 (6.0) Kinh nguyệt TMK 73 (44.5) 6 (37.5) 21 (32.8) 46 (54.8) 0.024* MK 91 (55.5) 10 (62.5) 43 (67.2) 38 (45.2) Giai đoạn I 33 (22.4) 4 (26.7) 14 (23.0) 15 (21.1) 0.882 II 114 (77.6) 11 (73.3) 47 (77.0) 56 (78.9) Hạch 0 109 (66.5) 13 (81.2) 47 (73.4) 49 (58.3) 0.156 1-3 39 (23.8) 2 (12.5) 14 (21.9) 23 (27.4) >3 16 (9.8) 1 (6.2) 3 (4.7) 12 (14.3) Độ mô học I 19 (11.6) 4 (25.0) 10 (15.6) 5 (6.0) 0.087 VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 493 II 70 (42.7) 5 (31.2) 23 (35.9) 42 (50.0) III 75 (45.7) 7 (43.8) 31 (48.4) 37 (44.0) NPI Tốt 38 (23.2) 7 (43.8) 16 (25.0) 15 (17.9) 0.061 TB 96 (58.5) 7 (43.8) 41 (64.1) 48 (57.1) Xấu 30 (18.3) 2 (12.5) 7 (10.9) 21 (25.0) Xâm nhập mạch (-) 135 (82.3) 14 (87.5) 55 (85.9) 66 (78.6) 0.456 (+) 29 (17.7) 2 (12.5) 9 (14.1) 18 (21.4) Nhận xét: Trong 164 bệnh nhân ung thư vú có thụ thể nội tiết dương tính, chủ yếu gặp nhóm có nguy cơ cao chiếm tỉ lệ 51.2%, nhóm nguy cơ trung bình chiếm 39.0%, nhóm nguy cơ thấp ít gặp nhất chiếm 9.8%. Độ tuổi 50 - 59 là độ tuổi phổ biến ở tất cả các nhóm nguy cơ. Trong các bệnh nhân ung thư vú nguy cơ cao, tỉ lệ bệnh nhân ở giai đoạn II cao (78.9%), có di cĕn trên 3 hạch lớn (14.3%), đa số mô u có độ mô học cao (ĐMH II chiếm 50%, ĐMH III chiếm 44.0%), chỉ số tiên lượng Nottingham đa số là trung bình và xấu (lần lượt chiếm 57.1% và 25.0%), tỉ lệ mô u có xâm nhập mạch cao (21.4%); ngược lại ở những bệnh nhân ung thư vú nguy cơ thấp, các tỉ lệ này đều thấp hơn; sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p > 0.05. Tình trạng kinh nguyệt của nhóm đôi tượng nghiên cứu có sự khác nhau giữa các nhóm nguy cơ, ở nhóm nguy cơ thấp và trung bình có tỉ lệ bệnh nhân giai đoạn tiền mãn kinh thấp hơn so với giai đoạn mãn kinh, trong khi ở nhóm nguy cơ cao thì ngược lại, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0.05. Biểu đồ 1. Biểu đồ Kaplan- Meier biểu hiện mối liên quan giữa nhóm IHC4 với thời gian sống thêm toàn bộ (n = 40) Logrank test p = 0.352 >0.05 Nhận xét: Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 40 trường hợp theo dõi được thời gian sống thêm, tỉ lệ sống thêm của bệnh nhân nhóm nguy cơ thấp, trung bình là 100%, trong khi nhóm nguy cơ cao là 87.5%, giá trị thang điểm IHC4 cao thì bệnh nhân có thời gian sống ngắn hơn, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p = 0.352 >0.05. BÀN LUẬN Ung thư vú biểu hiện trên lâm sàng rất phức tạp, là u không đồng nhất, không chỉ đa dạng trong hình thái và đặc điểm sinh học mà còn đa dạng trong đáp ứng với điều trị. Các liệu pháp điều trị được quyết định dựa trên các thông tin lâm sàng, giải phẫu bệnh có giá trị tiên lượng khác nhau. Các bệnh nhân được phân loại thành các nhóm nguy cơ dựa trên các biến số lâm sàng, giải phẫu bệnh như kích thước u, hạch di cĕn, độ mô học, các dấu ấn hóa mô miễn dịch như ER, PR, HER2, Ki67, nhằm đưa ra kế hoạch điều trị phù hợp với mỗi cá thể. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng thang điểm IHC4 dựa trên các dấu ấn hóa mô miễn dịch phổ biến, chi phí thấp để phân tầng nguy cơ ung thư biểu mô tuyến vú xâm nhập ở những bệnh nhân có thụ thể nội tiết dương tính. Kết quả chỉ ra rằng ung thư vú có nguy cơ cao chiếm tỉ lệ cao nhất là 51.2%, tiếp đến là nhóm nguy cơ trung bình (39.0%), thấp nhất là nhóm nguy cơ thấp (9.8%). Việc xác định nhóm nguy cơ trong ung thư vú có vai trò rất quan trọng trong điều trị và tiên lượng, đặc biệt xác định chiến lược điều trị. Theo hướng dẫn chẩn đoán và điều trị của Viện NICE (National Institute for Health and Care Excellence) nĕm 2018, để xác định chiến lược điều trị ung thư vú trên mỗi cá thể cần sử dụng các công cụ tiên lượng, ở những bệnh nhân có nguy cơ thấp sau khi phẫu thuật có thể điều trị đơn thuần bằng nội tiết, không cần điều trị bổ trợ bằng hóa chất. Nhóm nguy cơ trung bình có thể điều trị nội tiết đơn thuần hoặc kết hợp hóa trị. Trái lại, nhóm nguy cơ cao cần phải điều trị nội tiết, hóa trị kết hợp[4]. VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 494 Mối liên quan giữa nhóm nguy cơ với đặc điểm GPB - LS Kinh nguyệt Tuổi mãn kinh trung bình là 51 tuổi, đây được coi là mốc tuổi để xác định tình trạng tiền mãn kinh và sau mãn kinh và để đánh giá sự khác nhau về ung thư vú của 2 nhóm phụ nữ này. Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy ở hai nhóm nguy cơ thấp và trung bình thì tỉ lệ bệnh nhân mãn kinh nhiều hơn tiền mãn kinh, trong khi ở nhóm nguy cơ cao tỉ lệ tiền mãn kinh cao hơn, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p = 0.024 < 0.05. Nhiều chiến lược điều trị nội tiết ở phụ nữ tiền mãn kinh có ER dương tính đã được đánh giá trong nhiều nĕm qua. Điều rõ ràng từ tất cả các nghiên cứu này là điều trị nội tiết bổ trợ là một phần rất quan trọng trong các phác đồ bổ trợ nếu bệnh nhân đáp ứng với nội tiết. Lựa chọn điều trị cho bệnh nhân sau mãn kinh bao gồm hoặc Tamoxifen (Tam) hoặc một chất ức chế Aromatase (AI), viện NICE khuyến cáo nên dùng AI nối tiếp sau 5 nĕm dùng Tamoxifen sẽ làm giảm khả nĕng tái phátở những bệnh nhân mãn kinh[5]. Giai đoạn TNM Giai đoạn của ung thư vú là yếu tố tiên lượng quan trọng liên quan đến tỉ lệ sống thêm và phương pháp điều trị. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các bệnh nhân giai đoạn II có xu hướng tĕng dần theo các mức độ nguy cơ, tỉ lệ nhóm II ở nhóm nguy cơ cao là cao nhất chiếm 78.9%. Elsamany và cộng sự (2015) lấy giá trị IHC4 trung gian là điểm cut-off cho thấy nhóm bệnh nhân IHC4 thấp hơn có xu hướng có tỉ lệ đáp ứng hoàn toàn trên mô bệnh học cao hơn (p = 0.015), và giai đoạn mô bệnh học thấp hơn so với nhóm bệnh nhân IHC4 cao (p = 0.01)[6]. Tình trạng hạch Hạch nách là một trong những yếu tố tiên lượng quan trọng trong ung thư vú giai đoạn sớm có thể phẫu thuật và liên quan chặt chẽ đến cả thời gian sống không bệnh cũng như thời gian sống tổng thể.Các hình thái mô bệnh học, độ mô học, kích thước u là yếu tố quan trọng xác định hạch di cĕn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy trường hợp bệnh nhân di cĕn từ 3 hạch trở lên có xu hướng tĕng dần theo mức nguy cơ, với 1 trường hợp ở nhóm nguy cơ thấp và 12 trường hợp ở nhóm nguy cơ cao (p = 0.156), sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê). Nghiên cứu của Prakash và cộng sự trên 401 bệnh nhân, cho thấy những bệnh nhân không có di cĕn hạch có thời gian sống không tái phát bệnh (95.8%) cao hơn so với bệnh nhân di cĕn 1 - 3 hạch (90.37%) (p = 0.0239)[7]. Độ mô học Độ mô học là một trong những yếu tố tiên lượng quan trọng và đây cũng là một trong các thông số để xác định nhóm nguy cơ. Dựa trên độ mô học, các nhà ung thư học còn đưa ra một phác đồ điều trị bổ trợ chuẩn mực hơn nhằm giảm các biến chứng và nâng cao tỉ lệ sống thêm cho người bệnh. Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm nguy cơ cao có tỉ lệ độ mô học II cao nhất (50%), tỉ lệ độ mô học III ở 3 nhóm nguy cơ đều cao lần lượt là 43.8%, 48.4% và 44.0% (p = 0.087 > 0.05). Chỉ số tiên lượng Nottingham (NPI) Dựa vào kích thước u, tình trạng hạch di cĕn, độ mô học được tính toán đơn giản, Galea và cộng sự đã thiết lập nên công thức tính chỉ số tiên lượng cho bệnh nhân ung thư vú và dược chia thành 3 mức độ tiên lượng tốt, trung bình và xấu[8]. Sự phân nhóm tiên lượng sẽ giúp bệnh nhân được điều trị ở giai đoạn sớm hơn, đồng thời tránh cho họ các nguy cơ phải nhận điều trị bổ trợ không cần thiết. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nhóm ung thư vú nguy cơ cao có tỉ lệ chỉ số tiên lượng NPI xấu cao nhất (25.0%), những bệnh nhân có chỉ số tiên lượng NPI tốt gặp nhiều nhất ở nhóm có nguy cơ thấp (43.8%). Nghiên cứu của Weige Tan và cộng sự (2016) cho thấy tỉ lệ bệnh nhân pCR ở nhóm NPI tốt chiếm 20.2%, trong khi tỉ lệ này chỉ chiếm 10.2% ở nhóm NPI xấu, đồng thời những bệnh nhân thuộc nhóm nguy cơ cao và có chỉ số tiên lượng NPI xấu chỉ có 3.4% bệnh nhân pCR, trong khi tỉ lệ này lên tới 88.9% ở những bệnh nhân thuộc nhóm nguy cơ thấp và NPI tốt[9]. Xâm nhập mạch Xâm nhập mạch máu được định nghĩa là sự có mặt tế bào u trong mạch máu (mao mạch hoặc mạch bạch huyết) được xác định trên tiêu bản nhuộm HE hoặc nhuộm HMMD trong trường hợp không rõ ràng. Xâm nhập mạch có liên quan với tĕng nguy cơ di cĕn hạch và di cĕn xa. Bảng 1 cho thấy tình trạng xâm nhập mạch có xu hướng tĕng dần theo phân tầng nguy cơ thấp tới cao lần lượt chiếm 12.5%, 14.1% và 21.4%. Các nghiên cứu khác chỉ ra rằng xâm nhập mạch là một yếu tố tiên lượng độc lập về thời gian sống không tiến triển bệnh và thời gian sống tổng thể ở bệnh nhân điều trị hóa chất tân bổ trợ[10]. Nhóm nguy cơ và thời gian sống thêm của bệnh nhân UTV có thụ thể nội tiết dương tính Khi theo dõi 40/164 bệnh nhân UTV có thụ thể nội tiết dương tính, thời gian sống thêm toàn bộ trung bình là 74 tháng, chúng tôi thu được kết quả nhóm nguy cơ cao có tỉ lệ sống sót là 87.5%, với 3 trường hơp tử vong, trong khi ở hai nhóm còn lại chưa ghi nhận trường hợp nào tử vong, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p >0.05 (Biểu đồ 3.1). Tuy vậy, ta nhận thấy bệnh nhân có giá trị thang điểm IHC4 cao có xu hướng thời gian sống thêm ngắn hơn so với nhóm có giá trị IHC4 thấp, trung bình. VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 495 Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng thang điểm IHC4 có giá trị trong tiên lượng thời gian sống thêm không bệnh.Cheang và cộng sự (2018) cũng cho thấy thang điểm IHC4 rất hữu ích trong việc dự đoán tái phát lâu dài ở những bệnh nhân ung thư vú không bệnh sau 2 - 3 nĕm. Nghiên cứu của các tác giả là thử nghiệm đầu tiên cho thấy việc sử sụng rộng rãi thang điểm IHC4+C để chỉ định tiên lượng cho những bệnh nhân đã được trị liệu nội tiết 2-3 nĕm và vẫn sống không bệnh sau 2 - 3 nĕm[11]. Cũng trong nĕm này, nghiên cứu của Prakash và cộng sự đã chứng tỏ IHC4 là một yếu tố dự báo tiên lượng có ý nghĩa trong bốn phương pháp được xét nghiệm (Ki67, phân típ phân tử, PREDICT). Trong trường hơp không có công cụ nào tiên lượng chính xác, giá cả hợp lí, thì có thể áp dụng thay thế thang điểm để phân tầng nguy cơ bệnh nhân UTV có thụ thể nội tiết dương tính giai đoạn sớm. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tỉ lệ sống không tái phát xa ở nhóm nguy cơ thấp, trung bình, cao lần lượt là 96.88%, 95%, 89.96% (p = 0.028). Tuy nhiên, cũng như các xét nghiệm khác tác giả cũng nhận thấy các hạn chế của công cụ IHC4 về xác nhận việc xét nghiệm HMMD thiếu chuẩn hóa ở các phòng xét nghiệm khác nhau[7]. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 164 trường hợp được chẩn đoán ung thư vú xâm nhập có thụ thể nội tiết dương tính được mổ tại bệnh viện K cơ sở Quán sứ từ 1/2017 đến 12/2018, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: - Nhóm nguy cơ cao chiếm tỉ lệ cao nhất là 51.2%, nhóm nguy cơ thấp ít gặp nhất chiếm 9.8%. - Trong các bệnh nhân ung thư vú nguy cơ cao, tỉ lệ bệnh nhân ở giai đoạn II cao, đa số mô u có độ mô học, tỉ lệ xâm nhập mạch, di cĕn hạch cao, chỉ số tiên lượng Nottingham đa số là trung bình và xấu; ngược lại ở những bệnh nhân ung thư vú nguy cơ thấp, các tỉ lệ này đều thấp hơn; sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p >0.05. - Bệnh nhân có giá trị IHC4 cao có xu hướng có thời gian sống thêm toàn bộ ngắn hơn so với nhóm có giá trị IHC4 thấp, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0.05). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bray F., Ferlay J., Soerjomataram I. và cộng sự. (2018). Global cancer statistics 2018: GLOBOCAN estimates of incidence and mortality worldwide for 36 cancers in 185 countries. CA: A Cancer Journal for Clinicians, 2. Cheng Y., Yan Y., Gong J. và cộng sự. (2018). Trends in incidence and mortality of female breast cancer during transition in Central China. Cancer Manag Res, 10, 6247 - 6255. 3. Cuzick J., Dowsett M., Pineda S. và cộng sự. (2011). Prognostic value of a combined estrogen receptor, progesterone receptor, Ki-67, and human epidermal growth factor receptor 2 immunohistochemical score and comparison with the Genomic Health recurrence score in early breast cancer. J Clin Oncol Off J Am Soc Clin Oncol, 29(32), 4273 - 4278. 4. Overview | Early and locally advanced breast cancer: diagnosis and management | | NICE. 5. Smith S.G., Foy R., McGowan J.A. và cộng sự. (2017). Prescribing tamoxifen in primary care for the prevention of breast cancer: a national online survey of GPs’ attitudes. Br J Gen Pract, 67(659), e414 - e427. 6. Elsamany S., Elmorsy S., Alzahrani A. và cộng sự. (2015). Predictive Value of IHC4 Score for Pathological Response to Neoadjuvant Chemotherapy in Hormone Receptor-Positive Breast Cancer. Asian Pac J Cancer Prev APJCP, 16(17), 7975 - 7979. 7. Prakash C., Gunda A., Attuluri A.K. và cộng sự. (2018). Risk stratification in early-stage estrogen receptor+/HER2-breast cancer patients: Comparative analysis of cost-effective methods. J Curr Oncol, 1(1), 5. 8. Galea M.H., Blamey R.W., Elston C.E. và cộng sự. (1992). The Nottingham Prognostic Index in primary breast cancer. Breast Cancer Res Treat, 22(3), 207 - 219. 9. Tan W., Luo W., Jia W. và cộng sự. (2016). A combination of Nottingham prognostic index and IHC4 score predicts pathological complete response of neoadjuvant chemotherapy in estrogen receptor positive breast cancer. Oncotarget, 7(52), 87312 - 87322. 10. Liu Y.L., Saraf A., Lee S.M. và cộng sự. (2016). Lymphovascular Invasion is an Independent Predictor of Survival in Breast Cancer after Neoadjuvant Chemotherapy. Breast Cancer Res Treat, 157(3), 555 - 564. 11. Cheang M.C.U., Bliss J.M., Viale G. và cộng sự. (2018). Evaluation of applying IHC4 as a prognostic model in the translational study of Intergroup Exemestane Study (IES): PathIES. Breast Cancer Res Treat, 168(1), 169 - 178.
File đính kèm:
ap_dung_thang_diem_ihc4_de_phan_tang_nguy_co_ung_thu_vu_co_t.pdf

