Ảnh hưởng xử trí trước viện đến tử vong trong 24 giờ nhập viện tại Bệnh viện Nhi Trung Ương, năm 2013
Nhằm tìm hiểu việc xử trí tuyến trước và xử trí trong quá trình vận chuyển cấp cứu đến tử vong trong 24 giờ nhập viện, qua đó đề xuất các giải pháp giảm thiểu tỷ lệ tử vong ở trẻ tại Bệnh viện Nhi Trung ương, chúng tôi tiến hành nghiên cứu hồi cứu cắt ngang có phân tích 54 trường hợp tử vong trong 24 giờ nhập viện và 262 trường hợp tử vong sau 24 giờ nhập viện năm 2013 tại Bệnh viện Nhi Trung ương
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng xử trí trước viện đến tử vong trong 24 giờ nhập viện tại Bệnh viện Nhi Trung Ương, năm 2013", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng xử trí trước viện đến tử vong trong 24 giờ nhập viện tại Bệnh viện Nhi Trung Ương, năm 2013
V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG SỐ 37- Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn220 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ẢNH HƯỞNG XỬ TRÍ TRƯỚC VIỆN ĐẾN TỬ VONG TRONG 24 GIỜ NHẬP VIỆN TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG, NĂM 2013 Phan Thị Ngọc Lan1, Lê Thanh Hải1, Đỗ Mạnh Hùng1 1. Bệnh viện Nhi Trung ương Ngày nhận bài: 10/02/2017 Ngày phản biện: 14/02/2017 Ngày duyệt đăng: 18/02/2017 TÓM TẮT Nhằm tìm hiểu việc xử trí tuyến trước và xử trí trong quá trình vận chuyển cấp cứu đến tử vong trong 24 giờ nhập viện, qua đó đề xuất các giải pháp giảm thiểu tỷ lệ tử vong ở trẻ tại Bệnh viện Nhi Trung ương, chúng tôi tiến hành nghiên cứu hồi cứu cắt ngang có phân tích 54 trường hợp tử vong trong 24 giờ nhập viện và 262 trường hợp tử vong sau 24 giờ nhập viện năm 2013 tại Bệnh viện Nhi Trung ương. Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố ảnh hưởng đến tử vong trong 24 giờ nhập viện (p<0,05) như sau: - Xử trí tuyến trước: Thời gian vào viện sau 24 giờ, tuyến trước không chẩn đoán, chẩn đoán không phù hợp, phù hợp 1 phần; xử trí tuyến trước không hoặc xử trí không tích hợp. - Quá trình vận chuyển: Gia đình tự túc vận chuyển, không có nhân viên y tế, không có dụng cụ y tế trên xe, không được cấp cứu khi vận chuyển. Từ khóa: Tử vong 24h, xử trí trước viện, quá trình vận chuyển. ABSTRACT AFFECT OF MANAGEMENT AT PROVINCIAL HOSPITALS ON MORTALITY WITHIN 24 HOURS OF ADMISSION AT VIETNAM NATIONAL CHILDREN’S HOSPITAL IN 2013 To investigate the management of provincial hospitals and patient transport in patients who die within 24 hours of admission, from which suggestion for intervention should be drawn out, we carry out a cross-sectional study on 54 death cases within 24 hours of admission and 262 death cases after 24 hours of admission to Vietnam National Children’s Hospital in 2013. The result shows related factors of mortality rate within 24 hours of admission (p<0.05) as below: - Management at provincial hospitals: Admission after 24 hours, not be diagnosed, unpresise diagnosis, partly precise, not treatment, unsuitable treatment - Patient transport: Parents transport themselves, no medical staff to accompany patients, no medical equiptment on ambulance, no life support on ambulance. Keywords: Die within 24 hours of admission, the management of provincial hospitals, patient transport in patients I. ĐẶT VẤN ĐỀ Tỷ lệ tử vong trong 24 giờ trong bệnh viện chiếm tỷ lệ lớn so với tỷ lệ tử vong chung, thường chiếm tỷ lệ từ 39% năm 2000 xuống 23% năm 2004 và tỷ lệ này duy trì (giảm không đáng kể) trong hai năm 2005, 2006 và 2007 [1]. Theo Lê Thanh Hải và cộng sự tuyến trước đã có cố gắng điều trị và ổn định bệnh nhân trước khi chuyển viện song họ cũng gặp những trở ngại lớn cấp cứu về hô hấp, có lẽ do mặt bệnh hô hấp là phổ biến, kinh nghiệm điều trị những trường hợp nặng còn hạn chế, đồng thời tuyến trước cũng còn thiếu về trang thiết bị cấp cứu hô hấp (như CPAP, máy thở...). Đây có lẽ là lý do giải thích tại sao tỷ lệ tử vong trong khi chuyển viện không giảm [1]. Xử trí ban đầu cho bệnh nhi trước khi chuyển lên tuyến trên có ý nghĩa quan trọng để giảm bớt tỷ lệ tử vong. Việc nhận biết sớm các dấu hiệu nguy kịch, ổn định tình trạng bệnh nhi trước khi vận chuyển là hết sức cần thiết. Mô hình bệnh cấp cứu ở trẻ em khác biệt với người lớn, lý do chính là tỷ lệ mắc các bệnh nhiễm trùng gây nên suy hô hấp hay gặp hơn, suy chức năng thần kinh là nguyên nhân phổ biến nhất, nó có thể tiên phát do nhiễm trùng thần kinh trung ương hoặc thứ phát do nhiễm độc, thiếu o xy não, xuất huyết, chấn thương, động kinh hoặc các bệnh chuyển hoá [7]. Nhằm tìm ra giải pháp giảm tỷ lệ tử vong nói chung và tử vong trước 24 giờ nói riêng tại Bệnh viện Nhi Trung ương, chúng tôi tiến hàng nghiên cứu với đề tài: “Ảnh hưởng xử trí trước viện đến tử vong trong 24 giờ nhập viện, tại Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2013”. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 221 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 1. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu hồ sơ bệnh án năm về các trường hợp bệnh nhân tử vongtừ 01/10/2012 đến 30/09/2013 tại Bệnh viện Nhi Trung ương. Chỉ chọn các trường hợp có đầy đủ hồ sơ bệnh án, thông tin tình trạng cấp cứu, nhập viện, chuyển viện phù hợp với các mục tiêu, chỉ tiêu trong nghiên cứu. 2. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu các bệnh nhân tử vong từ 01/10/2012 đến 30/09/2013 Nghiên cứu mô tả cắt ngang, nghiên cứu định lượng có phân tích. 3. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu: Chọn toàn bộ đối tượng có đủ tiêu chuẩn nghiên cứu, kết quả nghiên cứu có 54 trẻ tử vong trong 24 giờ và 262 trẻ tử vong sau 24 giờ năm 2013. 4. Quản lý và phân tích số liệu: Nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1, phân tích số liệu bằng SPSS 17.0 III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa các hoạt động xử trí tuyến dưới bao gồm thời gian phát hiện đến khi vào viện, chẩn đoán tuyến trước và xử trí tuyến trước với tử vong trước và sau 24 giờ nhập viện (p<0,05). Nhóm trẻ có thời gian phát hiện đến khi vào viện trên 24 giờ có nguy cơ tử vong trước 24 giờ (32,7%) cao gấp 4,86 lần nhóm trẻ có thời gian phát hiện đến khi vào viện trong 24 giờ. Trẻ không được chẩn đoán, chẩn đoán không phù hợp, phù hợp 1 phần có nguy cơ tử vong trước 24 giờ (43,8%) cao gấp 7,84 lần nhóm trẻ chẩn đoán phù hợp, không rõ thông tin (9,1%). Nhóm trẻ không được xử trí, hoặc xử trí không thích hợp ở tuyến trước có nguy cơ tử vong trước 24 giờ nhập viện (30,09%) cao gấp 3,52 lần nhóm trẻ được xử trí thích hợp ở tuyến trước (11,3%). Bảng 1 Ảnh hưởng việc xử trí tuyến trước đến tử vong trong 24 giờ Bảng 2 Ảnh hưởng quá trình vận chuyển đến tử vong trong 24 giờ ở trẻ Phân loại Xử trí tuyến dưới Tử vong p ORTrong 24h Sau 24h SL TL SL TL Thời gian phát hiện đến khi vào viện >24 giờ 35 32,7 72 67,3 <0,001 4,86 (2,61-9,04)<24 giờ 19 9,1 190 90,9 Chẩn đoán tuyến trước Không chẩn đoán, chẩn đoán không phù hợp, phù hợp 1 phần 32 43,8 41 56,1 <0,001 7,84 (4,15-14,82) Phù hợp 22 9,1 221 90,9 Xử trí ở tuyến trước Không hoặc xử trí không thích hợp 29 30,9 65 69,1 <0,001 3,52 (1,92-6,43) Thích hợp 25 11,3 197 88,7 TỔNG 54 17,1 262 82,9 Phân loại Đặc điểm Tử vong p ORTrong 24h Sau 24h SL TL SL TL Đơn vị vận chuyển Gia đình 17 35,4 31 64,6 <0,001 3,42 (1,72-6,80)Dịch vụ 37 13,8 231 86,2 Nơi vận chuyển đến BV Nhi TW Nhà 16 25,0 48 75,0 0,0597 1,88 (0,97-3,64)BV tinh 38 15,1 214 84,9 Nhân viên y tế Không 17 33,3 34 66,7 <0,001 3,08 (1,56-6,07)Có 37 14,0 228 86,0 V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG SỐ 37- Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn222 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Các yếu tố trong quá trình vận chuyển ảnh hưởng đến tử vong trong và sau 24 giờ nhập viện bao gồm đơn vị vận chuyển, phương tiện vận chuyển, có nhân viên y tế, có dụng cụ y tế trên xe, được cấp cứu khi vận chuyển (p<0,05). Gia đình tự túc vận chuyển có nguy cơ tử vong trong 24 giờ nhập viện (35,4%) cao gấp 3,42 lần nhóm trẻ vận chuyển bằng dịch vụ vận chuyển (13,8%). Nhóm trẻ được vận chuyển trên xe không có nhân viên y tế có nguy cơ tử vong (33,3%) cao gấp 3,08 lần nhóm trẻ không có nhân viên y tế. Nhóm trẻ được vận chuyển trên xe không có dụng cụ y tế (34,7%) có nguy cơ tử vong trước 24 giờ nhập viện cao gấp 3,3 lần nhóm trẻ có dụng cụ y tế (13,9%). Nhóm trẻ không được cấp cứu khi vận chuyển có nguy cơ tử vong trước 24 giờ nhập viện (18,6%) cao gấp 4 lần nhóm trẻ được cấp cứu khi vận chuyển (13,6%). IV. BÀN LUẬN Thời gian phát hiện đến khi vào viện: Kết quả nghiên cứu cho thấy trẻ có thời gian phát hiện đến khi vào viện nguy cơ tử vong trước 24 giờ (32,7%) cao gấp 4,86 lần trẻ có thời gian phát hiện đến khi vào viện trong 24 giờ, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Việc đến bệnh viện muộn ở một số trường hợp là do gia đình khi có phát hiện trẻ có các dấu hiệu thì tự mua thuốc chữa lấy. Theo tác giả Hồ Việt Mỹ và CS nghiên cứu TVTE trước 24 giờ vào khoa Cấp cứu Nhi Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định (1990-1994) cho thấy 61,4% trẻ được điều trị trước ở bệnh viện thành phố, 43,86% là tự điều trị [2]. Cần tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục các bậc cha mẹ cách xử trí đúng khi trẻ có các dấu hiệu vấn đề về sức khỏe là điều cần thiết. Chẩn đoán ở tuyến trước: Kết quả nghiên cứu cho thấy trẻ không được chẩn đoán, chẩn đoán không phù hợp, phù hợp 1 phần có nguy cơ tử vong trong 24 giờ (43,8%) cao gấp 7,84 lần nhóm trẻ chẩn đoán phù hợp, không rõ thông tin (9,1%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Kết quả này có thể giải thích là khi trẻ được chẩn đoán chính xác ở tuyến cơ sở, trẻ sẽ được các bác sỹ đưa ra các phương án cấp cứu phù hợp nhất, điều đó sẽ giảm được nguy cơ tử vong trước 24 giờ ở trẻ. Xử trí tuyến trước: Kết quả nghiên cứu cho thấy trẻ không được xử trí, hoặc xử trí không thích hợp ở tuyến trước có nguy cơ tử vong trong 24 giờ nhập viện (30,09%) cao gấp 3,52 lần nhóm trẻ được xử trí thích hợp ở tuyến trước (11,3%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Vì đa số các trường hợp bệnh nhi tử vong trong 24 giờ là những bệnh nhi nặng, nên việc xử lý tuyến trước là rất quan trọng. Xử trí tuyến trước cho bệnh nhi giúp cho bệnh nhi ổn định trước sức khỏe, đảm bảo không xảy ra sự cố trên đường vận chuyển là rất quan trọng. Xử trí tuyến trước thích hợp: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy trẻ không được xử trí, hoặc xử trí không thích hợp ở tuyến trước có nguy cơ tử vong trong 24 giờ nhập viện (30,09%) cao gấp 3,52 lần nhóm trẻ được xử trí thích hợp ở tuyến trước (11,3%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Như vậy, mặc dù xử trí tuyến trước là rất quan trọng, suy vấn đề xử trí thích hợp với đặc thù mỗi loại bệnh cũng như đối với mỗi bệnh nhi là rất quan trọng. Kết quả nghiên cứu cho thấy cần nâng cao tỷ lệ xử trí tuyến trước cũng như kỹ năng xử trí tuyến cơ sở cho cán bộ y tế. * Các yếu tố trong quá trình vận chuyển Đơn vị vận chuyển: Gia đình tự túc vận chuyển có nguy cơ tử vong trong 24 giờ nhập viện (35,4%) cao gấp 3,42 lần nhóm trẻ vận chuyển bằng dịch vụ vận chuyển(13,8%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Đối với trẻ tử vong trong 24 giờ, thực tế là các trẻ đang trong tình trang được cấp cứu. Khi được vận chuyển bằng các dịch vụ cấp cứu, trên xe có trang thiết bị y tế, cán bộ y tế có kỹ năng xử trí tình huống, điều đó giải thích nguy cơ tử vong trong 24 giờ là cao hơn so với dịch vụ vận chuyển. Vận chuyển có nhân viên y tế: Nhóm trẻ được vận chuyển trên xe không có nhân viên y tế có nguy cơ tử vong (33,3%) cao gấp 3,08 lần nhóm trẻ không có nhân viên y tế, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Kết quả này cho thấy vai trò quan trọng của cán bộ y tế Phân loại Đặc điểm Tử vong p ORTrong 24h Sau 24h SL TL SL TL Có dụng cụ y tế trên xe Không 17 34,7 32 65,3 <0,001 3,30 (1,67-6,54)Có 37 13,9 230 86,1 Được cấp cứu khi vận chuyển Không 17 38,6 27 61,4 <0,001 4,0 (1,99-8,04)Có 37 13,6 235 86,4 TỔNG 54 17,1 262 82,9 SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 223 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE giúp xử trí các tình huống, ổn định bệnh nhân trong quá trình cấp cứu. Thực tế nhiều trường hợp bệnh nặng có biểu hiện không rõ ràng, gia đình đưa đến bệnh viện trong tình trạng tự túc, trên đường không được xử trí khi có sự cố, làm cho trẻ tử vong không đáng có, lẽ ra trẻ có thể giữ được tính mạng và hồi phục lại nếu có nhân viên y tế. Trang thiết bị trong quá trình vận chuyển: Kết quả nghiên cứu cho thấy trẻ được vận chuyển trên xe không có dụng cụ y tế (34,7%) có nguy cơ tử vong trong 24 giờ nhập viện cao gấp 3,3 lần trẻ có dụng cụ y tế (13,9%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Theo Hoàng Trọng Kim và cộng sự tại Bệnh viện Nhi Đồng I (2004) [3], ở các đối tượng chuyển tuyến cấp cứu, không tìm thấy mối liên quan giữa vận chuyển không an toàn với trang thiết bị đầy đủ (p>0,05). Mặc dù vậy, không có sự mâu thuẫn với kết quả nghiên cứu của chúng tôi, vì kết quả nghiên cứu của chúng tôi trên khía cạnh có hoặc không có trang thiết bị. Thực tế mỗi loại bệnh cấp cứu, cần thiết một vài loại trang thiết bị nhất định, không nhất thiết là đầy đủ. Tuy nhiên nếu trên xe được trang bị đầy đủ các trang thiết bị đầy đủ sẽ đảm bảo tốt hơn cho công tác vận chuyển cấp cứu. Các trang thiết bị như máy thở oxy, thiết bị giúp thông khí quản, sốc tim, các trang thiết bị giúp giữ ấm, các loại thuốc chống co giật, là cần thiết, điều đó có thể giảm thiểu được nguy cơ tử vong ở trẻ khi cấp cứu. Cấp cứu trên xe vận chuyển: Kết quả nghiên cứu cho thấy trẻ không được cấp cứu khi vận chuyển có nguy cơ tử vong trong 24 giờ nhập viện (18,6%) cao gấp 4 lần nhóm trẻ được cấp cứu khi vận chuyển (13,6%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự với tác giả Hoàng Trọng Kim và cộng sự tại Bệnh viện Nhi Đồng I (2004) [3], về các trường hợp cấp cứu chuyển tuyến cho thấy vận chuyển bệnh nhân không an toàn ở nhóm có xử trí ban đầu là 34,5% so với nhóm không có xử trí ban đầu là 18,8, OR=2,3, p<0,0001. Các kỹ thuật cấp cứu, khả năng xử trí cấp cứu là điều cần thiết trang bị cho cán bộ làm công tác vận chuyển cấp cứu. V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Kết quả nghiên cứu trên 54 trường hợp tử tử vong trong 24 giờ nhập viện và 262 trường hợp tử vong sau 24 giờ nhập viện cho thấy ảnh hưởng của việc xử trí tuyến trước và vận chuyển cấp đến tử vong trong 24 giờ nhập tại Bệnh viện Nhi Trung ương. Từ kết quả nghiên cứu cho thấy các bậc cha mẹ cần được truyền thông về nhân biết các dấu hiệu bất thường ở trẻ và đưa trẻ đến cơ sở y tế khi có các dấu hiệu về sức khỏe. Bên cạnh đó, các tuyến y tế cơ sở cần được tập huấn về các xử trí bệnh nhân đặc biệt với các trường hợp bệnh nặng. Cần tăng cường công tác cấp cứu tại bệnh viện cũng như dịch vụ 115, cần đảm bảo đầu tư đầy đủ các trang thiết bị, nhân lực và kỹ năng xử trí cấp cứu trong quá trình vận chuyển cấp cứu. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Bộ Y tế (2010), Nghiên cứu ứng dụng và đánh giá chương trình cấp cứu Nhi khoa nâng cao (APLS) nhằm góp phần làm giảm tỷ lệ tử vong trong 24h đầu ở tuyến tỉnh, Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài cấp Bộ, tr.1-57 – Chủ nhiệm đề tài Lê Thanh Hải. 2. Hồ Việt Mỹ, Phạm Thiên Ngôn (1996), "Tình hình tử vong trước 24 giờ tại phòng cấp cứu khoa nhi, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định trong 5 năm (1990 - 1994)", Nhi khoa, Tập 5, Tr. 55 - 62. 3. Hoàng Trọng Kim và cộng sự (2004)”Tính an toàn của các trường hợp chuyển viện đến khoa cấp cứu Bệnh viện Nhi đông 1 từtháng 3/2003 đến tháng 2/2004”. Y học thực hành 2004;495;116-121. 4. Phan Thị Thanh Huyền và Nguyễn Thành Đạt (2007), Tình hình ngưng tim ngưng thở trước nhập viện tại khoa Cấp cứu lưu Bệnh viện Nhi đồng 2 từ năm 2004 - 2007, Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, Tập 11, Phụ bản số 4, tr.74-78. 5. Tô Thanh Hương, Nguyễn Thị Nga (1981), "Tình hình tử vong trước 24 giờ tại Khoa Sơ sinh Viện bảo vệ sức khoẻ trẻ em trong 3 năm 1977 - 1979", Báo cáo Hội nghị ngành Nhi, Tr. 44 - 50. 6. Samdi O, Senegeh P. (1997) “Facilitating emergency obstetrical care through transportation and communication” Int.J.of Gynecology and Obstetrics; 52(2):157-64. 7. Sinclair .J (19970, "The spectrum of paediatric intensive care", Paediatric intensive care, Oxford university press 1997, pp. 31- 33. 8. Warren J.and et al (2004), Guidelines for the inter- and intrahospital transport of critically ill patients, Crit Care Med, 32(1), pp.256-62.
File đính kèm:
anh_huong_xu_tri_truoc_vien_den_tu_vong_trong_24_gio_nhap_vi.pdf

