Ảnh hưởng trình độ, kinh nghiệm kỹ năng xử trí của cán bộ y tế đến tính an toàn trong vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu tại Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2013

Trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng xử trí có vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng và khả năng hồi phục của bệnh nhân. Tìm hiểu các yếu tố như trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng xử trí của cán bộ y tế trong vận chuyển cấp cứu bệnh nhi, qua đó xác định giải pháp trong việc xây dựng đội ngũ vận chuyển cấp cứu nhi có hiệu quả là điều cần thiết. Do vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu mô tả cắt ngang 410 trường hợp vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu bệnh nhi từ các bệnh viện tuyến tỉnh đến Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2013

pdf 4 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng trình độ, kinh nghiệm kỹ năng xử trí của cán bộ y tế đến tính an toàn trong vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu tại Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2013", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng trình độ, kinh nghiệm kỹ năng xử trí của cán bộ y tế đến tính an toàn trong vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu tại Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2013

Ảnh hưởng trình độ, kinh nghiệm kỹ năng xử trí của cán bộ y tế đến tính an toàn trong vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu tại Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2013
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒ
NG
SỐ 37- Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn238
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
ẢNH HƯỞNG TRÌNH ĐỘ, KINH NGHIỆM KỸ NĂNG 
XỬ TRÍ CỦA CÁN BỘ Y TẾ ĐẾN TÍNH AN TOÀN TRONG 
VẬN CHUYỂN CHUYỂN TUYẾN CẤP CỨU TẠI BỆNH VIỆN 
NHI TRUNG ƯƠNG NĂM 2013
Đỗ Mạnh Hùng1, Lê Thanh Hải1, Lê Bá Tuấn1
1. Bệnh viện Nhi Trung ương
Ngày nhận bài: 10/02/2017 Ngày phản biện: 14/02/2017 Ngày duyệt đăng: 20/02/2017
TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
Trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng xử trí có vai trò quan 
trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng và khả năng hồi 
phục của bệnh nhân. Tìm hiểu các yếu tố như trình độ, kinh 
nghiệm, kỹ năng xử trí của cán bộ y tế trong vận chuyển cấp 
cứu bệnh nhi, qua đó xác định giải pháp trong việc xây dựng 
đội ngũ vận chuyển cấp cứu nhi có hiệu quả là điều cần thiết. 
Do vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu mô tả cắt ngang 410 
trường hợp vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu bệnh nhi từ 
các bệnh viện tuyến tỉnh đến Bệnh viện Nhi Trung ương năm 
2013. Kết quả nghiên cứu cho thấy tìm thấy mối liên quan 
có ý nghĩa thống kê (p<0,05) giữa tính an toàn trong vận 
chuyển chuyển tuyến cấp cứu bệnh nhi với các yếu tố thuộc 
về cán bộ y tế bao gồm:
+ Các đặc điểm của nhân viên y tế: Kinh nghiệm, thường 
xuyên vận chuyển cấp cứu, học PLS, và điểm đánh giá kỹ 
năng cấp cứu của nhân viên y tế; 
+ Các kỹ năng xử trí của cán bộ: Xử trí tuyến trước, liên 
hệ thảo luận trước chuyển, đầy đủ thông tin chuyển tuyến; 
hỗ trợ hô hấp, hỗ trợ truyền dịch khi vận chuyển bệnh nhân.
Từ khóa: Kỹ năng xử trí, an toàn, vận chuyển cấp cứu.
ABSTRACT
AFFECT OF QUALIFICATION, EXPERIENCES 
AND MANAGEMENT SKILLS OF MEDICAL STAFF 
ON PATIENT TRANSPORT SAFETY AT VIETNAM 
NATIONAL CHILDREN’S HOSPITAL IN 2013
It is the qualification, experiences and management skill 
of medical staff that directly affects patient’s condition and 
recovery. In order to investigate the factors such as qualification, 
experiences and management skill in patient transport, from 
which a solution is drawn out, we carry out a cross-sectional 
study on 410 patients who were transported from provincial 
hospital to Vietnam National Children’s Hospital in 2013. 
The result reveals the significant relationship (p<0.05) 
between patient safety transport and factors relating to staff
+ Characteristics of medical staff: experiences, frequently 
transport patients, trained PLS and emergency skills score; 
+ Management skills of staff: management at provincial 
hospitals, contact before referrals, fill out all information of 
referrals, respiratory support, infusion on ambulance.
Keywords: Management skill of medical staff, safety, 
emergency patient transport.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Jons Hopkins Medecine qui định nhân viên vận 
chuyển bệnh nhân phải được đào tạo qua các lớp tập huấn cơ 
bản như cấp cứu nhi khoa nâng cao (PALS), điều dưỡng cấp 
cứu nhi khoa (ENPC), lớp cấp cứu chấn thương nâng cao cho 
điều dưỡng (ATCN). Khi vận chuyển bệnh nhân sơ sinh thì 
phải có một kíp vận chuyển riêng [7].Có nhiều bệnh rất phức 
tạp và đa dạng mà cơ sở y tế tiếp nhận bệnh nhân không đủ 
khả năng để hồi sức và điều trị chuyên sâu [6]. Do đó, bệnh 
nhân cần phải được chuyển lên tuyến cao hơn với nguyên 
tắc là bệnh nhân thường xuyên được chăm sóc tốt nhất từ cơ 
sở tiếp nhận và xử trí ban đầu đến các đơn vị của tuyến trên. 
Theo tác giả Lê Thanh Hải việc các Bệnh viện Đa khoa 
tuyến tỉnh chưa có đội vận chuyển bệnh nhân cấp cứu với 
các cán bộ y tế chuyên trách dẫn tới tình trạng cán bộ y tế 
vận chuyển bệnh nhân không nắm đầy đủ thông tin về người 
bệnh từ tên, tuổi, chẩn đoán, điều trị, cũng như không có đủ 
khả năng theo dõi, đánh giá và xử lý các tình huống khẩn cấp 
xảy ra trong quá trình vận chuyển, dẫn tới tình trạng bệnh 
nhân nặng lên hoặc tử vong trên đường vận chuyển [1].
Nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của trình độ, kinh nghiệm và 
kỹ năng xử trí của cán bộ y tế đến tính an toàn của bệnh nhi 
trong vận chuyển tuyến cấp cứu từ các bệnh viện đa khoa 
tuyến tỉnh đến Bệnh viện Nhi Trung ương, qua đó tìm ra giải 
SỐ 37 - Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn 239
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
pháp can thiệp hiệu quả, chúng tôi tiến hành nghiên cứu: 
“Ảnh hưởng của trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng xử trí của 
cán bộ y tế đến tính an toàn trong vận chuyển chuyển tuyến 
cấp cứu tại Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2013”.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Các bệnh nhân nặng từ 0-18 tuổi được vận chuyển cấp 
cứu từ bệnh viện cấp tỉnh hoặc tương đương đến Bệnh viện 
nhi Trung ương theo qui định của Bộ Y tế.
Cán cán bộ y tế tham gia vận chuyển chuyển tuyến cấp 
cứu các bệnh nhi.
2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian tiến hành nghiên cứu: Từ tháng 4/2013 đến 
11/2013. 
- Địa điểm nghiên cứu: Khoa Cấp cứu-Chống độc, phòng 
khám Cấp cứu tại Bệnh viện Nhi Trung ương.
3. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang có phân tích, 
nghiên cứu định lượng.
4. Cỡ mẫu nghiên cứu
Chọn mẫu ngẫu nhiên theo công thức: 
)1()1(
*)1(
2
)2/1(
2
2
)2/1(
ppZNd
NppZ
n
−+−
−
=
−
−
α
α
N = 9.500: kích thước quần thể nghiên cứu, nghiên cứu 
của chúng tôi được tiền hành từ 5/2013 đến tháng 12/2013, 
do vậy chúng tôi sử dụng số liệu tham khảo số chuyển viện 
cấp cứu với cùng kỳ năm 2012, tức là từ thời điểm tháng 5 
đến tháng 11 năm 2012 có 9.500 bệnh nhi vận chuyển cấp 
cứu từ Bệnh viện tuyến tỉnh, đến Bệnh viện Nhi Trung ương.
p = 27,8%=0,278 là tỷ lệ vệ chuyển không an toàn, tham 
khảo từ nghiên cứu vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu từ 
bệnh viện tuyến tỉnh đến Bệnh viện Nhi Đồng II (bệnh viện 
thuộc tuyến trung ương) nghiên cứu được thực hiện từ tháng 
3/2003 đến tháng 2/2004 của tác giả Hoàng Trọng Kim và 
cộng sự [2].
Z = 1,96 (α = 0,05, độ tin cậy 95%, thu từ bảng Z)
d=0,045, là sai số tuyệt đối, lấy mức 0,045
n =367, cỡ mẫu cần nghiên cứu, với các giá trị trên, thay 
số ta được số bệnh nhi tối thiểu cần cho nghiên cứ là n=367 
bệnh nhi, dự phòng 10% đối tượng nghiên cứu chúng tôi tiến 
hành thu thập số liệu với 405 trường hợp bệnh nhi cần tiến 
hành nghiên cứu. 
Thực tế trong nghiên cứu chúng tôi thu thập 410 trường 
hợp bệnh nhi vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu từ các bệnh 
viện tuyến tỉnh, bệnh viện trung ương khác đến Bệnh viện 
Nhi Trung ương.
5. Xử lý và phân tích số liệu: Nhập liệu bằng phần mềm 
EPIDAT, nhập liệu bằng phần mềm SPSS.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1. Mối liên quan giữa số lượng, trình độ, kiến thức của nhân viên y tế với tính an toàn trong
Yếu tố
Không an toàn An toàn
p
OR
(95%CI)SL TL SL TL
Vị trí cán bộ
 ĐD 138 34,8 259 65,2
0,999*
1,20 
[0,36- 3,96]BS 4 30,8 9 69,2
Kinh nghiệm 
làm cấp cứu
Không 136 36,5 237 63,5
0,0136
2,96
[1,21- 7,29]Có 6 16,2 31 83,8
Thường xuyên 
VCCC
Không 115 38,0 188 62,0
0,0174
1,81
[1,11- 2,97]Có 27 25,2 80 74,8
Đã được 
học APLS
Không 86 39,8 130 60,2
0,02
1,63
[1,08- 2,46]Có 56 28,9 138 71,1
Đạt kỹ năng 
cấp cứu
Không 138 62,7 82 37,3
<0,001*
78,26
Đạt 4 2,1 186 97,9 [28,01-218,65]
TỔNG 142 34,6 268 65,4
Kỹ năng của đội ngũ cán bộ cấp cứu gồm kinh nghiệm, 
thường xuyên vận chuyển cấp cứu, học PLS, và điểm đánh 
giá kỹ năng cấp cứu của nhân viên y tế có ảnh hưởng đến tính 
an toàn khi vận chuyển bệnh nhi (p<0,05). Trong đó, tỷ lệ vận 
chuyển an toàn ở xe có cán bộ không có kinh nghiệm là 36,5%, 
có kinh nghiệm 16,2%, OR=2,96. Tỷ lệ vận chuyển không an 
toàn nhóm không thường thường xuyên là 38%, nhóm thường 
xuyên là 25,2%. Tỷ lệ vận chuyển không an toàn nhóm chưa 
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒ
NG
SỐ 37- Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn240
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 2. Mối liên quangiữa kỹ năng xử trí của cán bộ với tính an toàn vận chuyển cấp cứu bệnh nhi
Yếu tố
Không an toàn An toàn
p
OR
(95%CI)SL TL SL TL
Được xử trí ở 
tuyến trước
Không 78 47,6 86 52,4
<0,001
2,58
[1,70- 3,92]Có 64 26,0 182 74,0
Liên hệ, thảo luận 
trước chuyển
Không 141 36,1 250 63,9
0,005*
10,15
[1,34- 76,85]Có 1 5,3 18 94,7
Thông tin 
chuyển tuyến
Không 74 77,9 21 22,1
<0,001
12,80
[7,36- 22,27]Đầy đủ 68 21,6 247 78,4
Hỗ trợ hô hấp 
khi vận chuyển
Không 133 45,2 161 54,8
<0,001
9,82
[4,79- 20,14]Có 9 7,8 107 92,2
Truyền dịch khi 
vận chuyển
Không 138 36,5 240 63,5
0,006*
4,03
[1,38- 11,72]Đạt 4 2,1 186 97,9
TỔNG 142 34,6 268 65,4
 (*Kiểm định Fisher's exact 2 phía)
Các yếu tố trong xử trí trong chuyển tuyến cấp cứu đều ảnh 
hưởng đến tính an toàn trong cấp cứu (p<0,05). Trong đó, tỷ lệ 
không an toàn ở nhóm không được xử trí ở tuyến trước là 47,6%, 
so với được xử trí là 26%, OR=2,58. Tỷ lệ không an toàn nhóm 
trẻ không được liên hệ, thảo luận trước chuyển tuyến là 36,1%, 
so với nhóm trẻ được liên hệ, thảo luận 5,3%. Tỷ lệ không an 
toàn ở nhóm không có thông tin chuyển tuyến là 77,9%, so 
với 21,6% ở nhóm có đầy đủ thông tin, OR=12,8. Tỷ lệ không 
an toàn ở nhóm không có sự hỗ trợ hô hấp khi vận chuyển là 
45,2%, so với 7,8% ở nhóm có sự hỗ trợ, OR=9,82. Tỷ lệ không 
an toàn ở nhóm không có truyền dịch khi vận chuyển là 36,5%, 
so với 12,5% khi có sự truyền dịch, OR=4,03.
IV. BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy trong các yếu tố thuộc 
về nhân lực kể trên chỉ có duy nhất yếu trình độ cán bộ là 
không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tính an toàn 
trong vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu (p>0,05). Các yếu tố 
còn lại trong đó bao gồm kinh nghiệm cán bộ, thường xuyên 
vận chuyển cấp cứu, được học PLS và kỹ năng cấp cứu có 
mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tính an toàn trong 
vận chuyển (p<0,05). Thực tế hàng tại Bệnh viện Nhi Trung 
ương cũng đã có các lớp đào tạo, tập huấn về cấp cứu bệnh 
nhi, song các lớp chủ yếu là các khóa tập huấn ngắn ngày 
và cũng rất ít khi tổ chức. Bên cạnh đó, cán bộ làm công tác 
vận chuyển cấp cứu ở các bệnh viện thường hay phải luôn 
chuyển cán bộ, chuyên môn mặc dù có được học, tuy nhiên 
kỹ năng chưa được thuần thục. Theo nhóm nghiên cứu của 
chúng tôi, cần có các cán bộ cấp cứu nhi chuyên sâu, có 
các lớp đào tạo thường xuyên cho các bệnh viện tuyến tỉnh, 
tuyến huyện, bên cạnh đó cũng cần có các hội thảo, hội nghị 
chia sẻ kinh nghiệm trong cấp cứu nhi. Để làm được điều đó, 
cần có sự phối hợp giữa các đơn vị mà Bộ Y tế, Sở Y tế là 
các đơn vị chỉ đạo thực hiện, các Bệnh viện Nhi Trung ương, 
Nhi đồng I, Nhi Đồng II và các Bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến 
huyện cần có sự phối hợp trong việc đào tạo, tập huấn về 
chuyên môn, chia sẻ kinh nghiệm.
Các yếu tố thuộc về kỹ năng xử trí trong vận chuyển 
chuyển viện cấp cứu mà chúng tôi đã đề cập đến bao gồm 
được xử trí ở tuyến trước; liên hệ, thảo luận trước vận chuyển; 
thông tin chuyển tuyến, hỗ trợ hô hấp khi vận chuyển; truyền 
dịch khi vận chuyển. Các yếu tố này đều có mối liên quan có 
ý nghĩa thông kê với tính an toàn chuyển viện chuyển tuyến 
cấp cứu (p<0,05). Về các biện pháp xử trí như đặt nội khí 
quản, thở oxy, truyền dịch nghiên cứu của chúng tôi tương 
tự với kết quả nghiên cứu của tác giả Hoàng Trọng Kim [3] 
trong đó: Chuyển viện không an toàn ở nhóm bệnh nhân có 
nội khí quản là 91,7%, so với nhóm bệnh nhân không có nội 
khí quản là 26,7, OR=30,2, p<0,0001; Chuyển bệnh nhân 
không an toàn có thở ô xy 68,1%, so với không có ô xy là 
15,3%, OR=11,7, p<0,0001; Qua phân tích kết quả nghiên 
cứu của chúng tôi cho thấy vai trò của công tác xử trí đối với 
sự an toàn trong vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu, trong đó 
cần thiết xử trí ở tuyến trước trước khi vận chuyển bệnh nhân 
lên bệnh viện nhi trung ương. Cần đảm bảo viện liên hệ thảo 
luận trước khi vận chuyển, trong quá trình vận chuyển cần 
có sự hỗ trợ về hô hấp, truyền dịch ở trẻ đối với từng bệnh và 
chỉ định điều trị.
được học PLS là 39,8%, nhóm đã được học 28,9%, OR=1,63.
SỐ 37 - Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn 241
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Qua nghiên cứu của chúng tôi trên 410 trường hợp bệnh 
nhi vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu từ các tỉnh đến Bệnh 
viện Nhi Trung ương cho thấy các yếu tố như trình độ, kinh 
nghiệm có ảnh hưởng lớn sự an toàn của bệnh nhi trong quá 
trình vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu.
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy các Bệnh viện Đa khoa, 
Bệnh viện sản nhi tuyến tỉnh cần có các bộ phân cấp cứu 
riêng biệt với các cán bộ có kỹ năng cấp cứu trong đó có kỹ 
năng cấp cứu trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Thường xuyên mở các 
lớp tập huấn, hội nghị, hội thảo về cấp cứu chuyển tuyến 
nhằm trao đổi kinh nghiệm học tập. Đặc biệt cần có các buổi 
diễn tập cấp cứu với các tình huống cấp cứu khác nhau nhằm 
đảm bảo kỹ năng xử trí các tình huống tốt. Bệnh viện tuyến 
trung ương, tuyến tỉnh cần có sự phối hợp, liên hệ với nhau 
tổ chức công tác cấp cứu nhi có hiệu quả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Bộ Y tế (2010), Nghiên cứu ứng dụng và đánh giá chương trình cấp cứu Nhi khoa nâng cao (APLS) nhằm góp phần làm 
giảm tỷ lệ tử vong trong 24h đầu ở tuyến tỉnh, Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài cấp Bộ - Chủ nhiệm đề tài Lê Thanh Hải.
2. Đinh Phương Hòa và Nguyễn Công Khanh (2005), Nghiên cứu hiện trạng cấp cứu nhi, lựa chọn tiến bộ khoa học 
và xây dựng mô hình cấp cứu nhi khoa phù hợp các tuyến nhằm giam tỷ lệ tử vong trong 24 giờ đầu, Đề tài độc lập cấp 
nhà nước, tr.59- 61.
3. Hoàng Trọng Kim (2004), Tính an toàn của các trường hợp chuyển viện đến khoa Cấp cứu Bệnh viện Nhi Đồng 1, 
Tạp chí Y học thực hành-Bộ Y tế, tr.116-121
4. Lê Thanh Hải (2009), Đánh giá vận chuyển bệnh nhi nặng từ tuyến tỉnh đến khoa cấp cứu Bệnh viện Nhi Trung ương 
năm 2009, Tạp chí Nhi khoa, tr.15-19.
5. Lê Thanh Hải (2010), Vận chuyển an toàn bệnh nhân trẻ em, Thực hành cấp cứu Nhi khoa, Nhà xuất bản Y học, tr.27-35
6. Kronick, J.B., et al. (1996), Pediatric and neonatal critical care transport: a comparison of therapeutic interventions. 
Pediatr Emerg Care, 1996. 12(1): p. 23-6. 
7. Jons Hopkins Lifline (2014), The Jons Hopkins Medecine Lifeline Transportation Program, 410.614.7777. 1800 
Orleans Street Nelson SB-280 Baltimore, Maryland 21287.
8. Praveen Khilnani and R.Chhabra (2008), Transport of critically ill children: How to utilize resourses in the 
developing world, Indian J Pediatr, 75(6), pp.591-598. 
9. Warren J.and et al (2004), Guidelines for the inter- and intrahospital transport of critically ill patients, Crit Care Med, 
32(1), pp.256-62

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_trinh_do_kinh_nghiem_ky_nang_xu_tri_cua_can_bo_y_t.pdf