Ảnh hưởng trên sức mạnh cơ tứ đầu đùi của phương pháp giảm đau gây tê ống cơ khép liên tục ở bệnh nhân sau mổ nội soi khớp gối

So sánh ảnh hưởng lên sức mạnh cơ tứ đầu đùi của phương pháp giảm đau bằng gây tê ống cơ khép

liên tục so với phương pháp gây tê thần kinh đùi liên tục ở bệnh nhân sau mổ nội soi khớp gối. 60 bệnh nhân

phẫu thuật nội soi khớp gối được giảm đau sau mổ bằng phương pháp gây tê ống cơ khép (OCK) và thần

kinh đùi (TKĐ) liên tục tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 3 – 9 năm 2018. Điểm đau VAS, sức mạnh

cơ tứ đầu đùi đánh giá bằng test cơ lực bằng tay và độ mất duỗi khớp gối được ghi lại trong 5 ngày sau mổ.

Cơ lực cơ tứ đầu đùi của nhóm OCK là cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm TKĐ ở tất cả các thời điểm

nghiên cứu (p < 0,05).="" tại="" thời="" điểm="" 24="" giờ="" sau="" phẫu="" thuật,="" rome="" ở="" nhóm="" ock="" ở="" mức="" độ="" gần="" như="">

thường và bình thường cao hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm TKĐ (76,6% vs 6,7%, p < 0,05).="" sức="" mạnh="">

tứ đầu đùi phục hồi về mức gần như bình thường từ ngày thứ 3 sau mổ ở nhóm OCK. Gây tê ống cơ khép

liên tục có tác dụng tốt trong việc duy trì sức mạnh cơ tứ đầu đùi cho các bệnh nhân sau mổ nội soi khớp gối.

pdf 8 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng trên sức mạnh cơ tứ đầu đùi của phương pháp giảm đau gây tê ống cơ khép liên tục ở bệnh nhân sau mổ nội soi khớp gối", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng trên sức mạnh cơ tứ đầu đùi của phương pháp giảm đau gây tê ống cơ khép liên tục ở bệnh nhân sau mổ nội soi khớp gối

Ảnh hưởng trên sức mạnh cơ tứ đầu đùi của phương pháp giảm đau gây tê ống cơ khép liên tục ở bệnh nhân sau mổ nội soi khớp gối
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
39TCNCYH 125 (1) - 2020
Tác giả liên hệ: Vũ Hoàng Phương
Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 19/10/2019
Ngày được chấp nhận: 02/12/2019
ẢNH HƯỞNG TRÊN SỨC MẠNH CƠ TỨ ĐẦU ĐÙI CỦA 
PHƯƠNG PHÁP GIẢM ĐAU GÂY TÊ ỐNG CƠ KHÉP LIÊN TỤC 
Ở BỆNH NHÂN SAU MỔ NỘI SOI KHỚP GỐI 
Vũ Hoàng Phương¹, , Nguyễn Văn Hoàng²
¹Khoa Gây mê hồi sức và Chống đau – Bệnh viện Đại học Y Hà Nội; 
²Khoa Gây mê hồi sức – Bệnh viện Bạch Mai
So sánh ảnh hưởng lên sức mạnh cơ tứ đầu đùi của phương pháp giảm đau bằng gây tê ống cơ khép 
liên tục so với phương pháp gây tê thần kinh đùi liên tục ở bệnh nhân sau mổ nội soi khớp gối. 60 bệnh nhân 
phẫu thuật nội soi khớp gối được giảm đau sau mổ bằng phương pháp gây tê ống cơ khép (OCK) và thần 
kinh đùi (TKĐ) liên tục tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 3 – 9 năm 2018. Điểm đau VAS, sức mạnh 
cơ tứ đầu đùi đánh giá bằng test cơ lực bằng tay và độ mất duỗi khớp gối được ghi lại trong 5 ngày sau mổ. 
Cơ lực cơ tứ đầu đùi của nhóm OCK là cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm TKĐ ở tất cả các thời điểm 
nghiên cứu (p < 0,05). Tại thời điểm 24 giờ sau phẫu thuật, ROMe ở nhóm OCK ở mức độ gần như bình 
thường và bình thường cao hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm TKĐ (76,6% vs 6,7%, p < 0,05). Sức mạnh cơ 
tứ đầu đùi phục hồi về mức gần như bình thường từ ngày thứ 3 sau mổ ở nhóm OCK. Gây tê ống cơ khép 
liên tục có tác dụng tốt trong việc duy trì sức mạnh cơ tứ đầu đùi cho các bệnh nhân sau mổ nội soi khớp gối.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật chấn thương chỉnh hình khớp 
gối là nguyên nhân gây ra tình trạng đau sau 
mổ mức độ từ vừa đến nặng. Phương pháp 
giảm đau lý tưởng cho phẫu thuật khớp gối 
nên giữ được khả năng vận động khớp gối, cho 
phép vật lý trị liệu sớm hơn, phục hồi nhanh, rút 
ngắn thời gian nằm viện, giảm các biến chứng 
sau phẫu thuật và giúp cải thiện sự hài lòng của 
bệnh nhân.¹ Gây tê thần kinh đùi dưới hướng 
dẫn của siêu âm được áp dụng để giảm đau 
sau phẫu thuật nội soi khớp gối cho thấy kết 
quả giảm đau tốt.² Tuy nhiên, phương pháp 
này làm giảm đáng kể sức mạnh cơ tứ đầu đùi, 
tăng nguy cơ ngã sau mổ, làm chậm quá trình 
vận động sớm sau mổ.1,3 Gây tê trong ống cơ 
khép liên tục là một phương pháp giảm đau 
sau mổ tốt và có tác dụng chọn lọc không ảnh 
hưởng đến vận động khớp gối,4 do thần kinh 
hiển trong ống cơ khép là nhánh chi phối cảm 
giác lớn nhất của thần kinh đùi xuống đầu gối.5 
Hiện nay, trên thế giới gây tê trong ống cơ khép 
là phương pháp mới đang rất được quan tâm 
nghiên cứu. Ở Việt Nam, vẫn chưa có nghiên 
cứu nào đánh giá về ảnh hưởng lên cơ lực cơ 
tứ đầu đùi của gây tê ống cơ khép liên tục ở 
các phẫu thuật nội soi khớp gối. Chính vì vậy, 
chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với mục 
tiêu: Đánh giá ảnh hưởng của gây tê ống cơ 
khép liên tục lên sức mạnh cơ tứ đầu đùi so với 
gây tê thần kinh đùi liên tục ở bệnh nhân sau 
phẫu thuật nội soi khớp gối.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng 
Từ khóa: Gây tê ống cơ khép liên tục, sức mạnh cơ tứ đầu đùi, gây tê thần kinh đùi, nội soi khớp gối.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
40 TCNCYH 125 (1) - 2020
Các bệnh nhân nghiên cứu có độ tuổi > 15, 
không có chống chỉ định gây tê vùng và có chỉ 
định phẫu thuật nội soi khớp gối theo chương 
trình tại khoa Gây mê hồi sức và chống đau - 
Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 3 - 8 năm 
2018. Bệnh nhân bị loại trừ ra khỏi nghiên cứu 
bao gồm: nhiễm trùng tại vị trí chọc kim, tiền 
sử rối loạn tâm thần, khó khăn trong giao tiếp, 
bệnh nhân không hợp tác, bệnh nhân hoặc 
người giám hộ không đồng ý tham gia nghiên 
cứu.
2. Phương pháp
* Thiết kế nghiên cứu: thử nghiệm lâm sàng 
tiến cứu, có đối chứng.
* Cỡ mẫu: Có 60 bệnh nhân đáp ứng đủ tiêu 
chuẩn lựa chọn, được thu thập trong khoảng 
thời gian nghiên cứu và dùng phương pháp bốc 
thăm chia bệnh nhân ngẫu nhiên vào 2 nhóm 
nghiên cứu: 30 bệnh nhân được thực hiện với 
phương pháp gây tê trong ống cơ khép liên tục 
dưới hướng dẫn của siêu âm (nhóm OCK) và 
30 bệnh nhân được thực hiện phương pháp 
gây tê thần kinh đùi liên tục dưới hướng dẫn 
của siêu âm (nhóm TKĐ).
* Các bước tiến hành nghiên cứu: 
- Bước 1: Bệnh nhân được gây tê trong ống 
cơ khép liên tục hoặc gây tê thần kinh đùi liên 
tục dưới hướng dẫn của siêu âm tại phòng thủ 
thuật trước khi phẫu thuật. Vô cảm trong mổ 
bằng phương pháp tê tủy sống với bupivacain 
và fentanyl. 
- Bước 2: Bệnh nhân sau mổ sau khi đã 
hết tác dụng của gây tê tuỷ sống và có điểm 
VAS > 4 được bắt đầu tiến hành giảm đau sau 
mổ. Cả 2 nhóm đều được tiêm liều bolus bằng 
dung dịch bupivacain 0.1%, sau đó cho truyền 
liên tục dung dịch bupivacain 0.1% - tốc độ 
8ml/h qua catheter giảm đau. Điều chỉnh tốc độ 
truyền theo mức độ đau của bệnh nhân tại mỗi 
thời điểm nghiên cứu. Nghiên cứu viên đánh 
giá điểm đau VAS khi bệnh nhân tập gấp gối 45 
tại các thời điểm nghiên cứu.
- Đánh giá sức mạnh cơ tứ đầu đùi tại thời 
điểm ngày 1,2,3,4 và 5 sau mổ do kĩ thuật viên 
phục hồi chức năng thực hiện bằng: 
+ Test cơ lực bằng tay (Manual Muscule 
Testing - MMT)⁶: chia thành 5 mức độ, trong đó 
từ mức độ 3 trở lên cho phép thực hiện được 
tầm vận động và thắng được trọng lực chi thể. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
41TCNCYH 125 (1) - 2020
 + Độ mất duỗi khớp gối theo IKDC (International Knee Documentation Committee)⁷: 
TVĐ khớp gối A: Bình thường B: Gần như bình thường C: Bất thường D: Rất bất thường
Mất duỗi gối □ 10⁰
Mất gấp gối □ 0⁰ - 5⁰ □ 6⁰ - 15⁰ □ 16⁰ - 25⁰ □ > 5⁰
 3. Xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm thống kê SPSS 16.0. Với các biến định lượng dùng thuật toán T-student. Với 
các biến định tính: χ2 hoặc Fisher (nếu > 10% số ô bảng 2 x 2 có tần suất lý thuyết < 5). Sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05. 
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được thông qua hội đồng nghiên cứu khoa học của Bộ môn Gây mê hồi sức – 
Trường Đại học Y Hà Nội, ban lãnh đạo khoa Gây mê hồi sức và chống đau – Bệnh viện Đại học Y 
Hà Nội. Hồ sơ và các thông tin liên quan chỉ được sử dụng cho mục đích nghiên cứu, không tiết lộ 
cho bất kì đối tượng không liên quan nào khác. 
III. KẾT QUẢ
1. Một số đặc điểm chung của 2 nhóm nghiên cứu
Bảng 1. Phân bố đặc điểm chung của 2 nhóm nghiên cứu
Nhóm
Phân bố
Nhóm OCK
(n = 30)
Nhóm TKĐ
(n = 30)
Tổng
(n = 60)
p 
Tuổi
(năm)
X̅ ± SD 31,9 ± 8,4 32,0 ± 10,7 31,9±9,5
> 0,05
Min - Max 23 - 49 17 - 58 17 - 58
Giới tính
Nam(%) 23 ( 76,7%) 24 (80%) 47 (78,3%)
> 0,05
Nữ(%) 7 ( 23,3%) 6 (20%) 13 (21,7%)
Chiều cao
(cm)
X̅ ± SD 165,3 ± 7,1 167,3 ± 7,9 166,3± 7,5
> 0,05
Min - Max 153 - 179 153 - 182 153- 182
Cân nặng
(kg)
X̅ ± SD 62,2 ± 9,4 64,7 ± 10,1 63,4 ± 9,7
> 0,05
Min - Max 44 - 77 47 - 85 44- 85
BMI
(Kg/m2)
X̅ ± SD 22,7 ± 2,7 23,0 ± 2,5 23 ± 2.6
> 0,05
Min - Max 18,3 – 30,4 18,4 – 28,7 18,3- 30,4
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi, giới, chiều cao, cân nặng, chỉ số khối cơ thể 
trước mổ giữa 2 nhóm nghiên cứu (Bảng 1).
Bệnh lý tổn thương ACL chiếm đa số trong nghiên cứu (83,3% với nhóm OCK, 90% với nhóm 
TKĐ). Tỷ lệ phân bố các loại phẫu thuật là tương đương nhau giữa 2 nhóm bệnh nhân (p > 0,05) 
(Bảng 2).
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
42 TCNCYH 125 (1) - 2020
Bảng 2. Phân loại phẫu thuật và tổn thương khớp gối
Loại phẫu thuật
Nhóm OCK Nhóm TKĐ
p
n Tỷ lệ n Tỷ lệ
Tái tạo ACL 13 43,3% 12 40%
> 0,05
Tái tạo PCL 2 6,7% 1 3,3%
Tái tạo ACL và MCL 2 6,7% 1 3,3%
Tái tạo ACL và SSC 10 33,3% 14 46,7%
Sửa sụn chêm 3 10% 2 6,7%
Loại tổn thương
Tổn thương ACL 25 83,3% 27 90%
> 0,05
Các tổn thương khác 5 16,6% 3 10%
* ACL (dây chằng chéo trước); PCL (dây chằng chép sau); MCL (dây chằng chéo giữa) và SSC (sửa 
sụn chêm).
2. Điểm đau VAS khi gấp gối 45 độ:
Biểu đồ 1. Điểm VAS khi vận động ( Gấp gối 45 độ)
Biểu đồ 2. Điểm đánh giá cơ lực cơ tứ đầu đùi tại các thời điểm
6.2
2.6
2.63
3.16
3.87
3.17
2.67 2.33 2.2 2
2.63
1.6 1.33
6.23
3.2
2.43 2.73
3.47
3.77
3.1 2.87 2.73
2.5 2.87 2.07
1.7
0
2
4
6
8
10
H0 H0.2 H1 H4 H8 H12 H16 H24 H36 H48 H72 H96 H120
V
A
S
 g
ấ
p
 g
ố
i 4
5
 đ
ộ
Các thời điểm nghiên cứu
Nhóm OCK Nhóm TKĐ
3.63* 3.83*
4.17*
4.53*
4.87*
2.73 2.93
3.03
3.43
3.83
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
3.5
4
4.5
5
Ngày 1 Ngày 2 Ngày 3 Ngày 4 Ngày 5
C
ơ
 lự
c 
M
M
T
Nhóm OCK Nhóm TKĐ
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
43TCNCYH 125 (1) - 2020
Điểm VAS trung bình khi gấp gối 45 độ thời điểm H0 ở hai nhóm tương ứng là 6,2 ± 0,41 và 6,23 
± 0,43 (tương ứng với mức độ đau nhiều). Tại các thời điểm nghiên cứu, điểm VAS trung bình giảm 
về mức đau nhẹ và trung bình. Điểm VAS trung bình khi gấp gối 45 độ của 2 nhóm là không có sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê tại các thời điểm nghiên cứu (Biểu đồ 1, 2).
3. Đánh giá sức mạnh cơ tứ đầu đùi
Bảng 3. Độ mất duỗi khớp gối theo IKDC tại các thời điểm nghiên cứu
Thời gian Tầm vận động duỗi khớp gối
Nhóm OCK
(n = 30)
Nhóm TKĐ
(n = 30) P
n % n %
Trước tê
Bình thường 15 50 20 66,7
> 0,05
Gần như bình thường 14 46,7 10 33,3
Bất thường 1 3,3 0 0
Rất bất thường 0 0 0 0
Ngày thứ 1
Bình thường 1 3,3 0 0
< 0,05*
Gần như bình thường 22 73,3 2 6,7
Bất thường 5 16,7 24 80
Rất bất thường 2 6,7 4 13,3
Ngày thứ 2
Bình thường 3 10 0 0
< 0,05*
Gần như bình thường 22 73,3 3 10
Bất thường 5 16,7 26 86,7
Rất bất thường 0 0 1 3,3
Ngày thứ 3
Bình thường 9 30 0 0
< 0,05*
Gần như bình thường 18 60 4 13,3
Bất thường 3 10 26 86,7
Rất bất thường 0 0 0 0
Ngày thứ 4
Bình thường 12 40 0 0
< 0,05*
Gần như bình thường 17 56,7 5 16,7
Bất thường 1 3,3 25 83,3
Rất bất thường 0 0 0 0
Ngày thứ 5
Bình thường 14 46,7 0 0
< 0,05*
Gần như bình thường 15 50 7 23,3
Bất thường 1 3,3 23 76,7
Rất bất thường 0 0 0 0
Cơ lực cơ tứ đầu đùi của nhóm OCK theo MMT là trên 3 ở tất cả các thời điểm nghiên cứu. Từ 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
44 TCNCYH 125 (1) - 2020
ngày thứ 3 cơ lực cơ tứ đầu đùi là trên 4, cho 
phép vận động, phục hồi chức năng tốt. Cơ lực 
cơ tứ đầu đùi của nhóm OCK là cao hơn so với 
nhóm TKĐ tại tất cả các thời điểm nghiên cứu 
(p < 0,05).
Bảng 3 cho thấy thời điểm trước gây tê, khả 
năng duỗi của khớp gối theo IKDC của 2 nhóm 
nghiên cứu là như nhau. Tại các thời điểm từ 
ngày thứ 1 – 5 sau mổ, khả năng duỗi khớp của 
cả 2 nhóm đều giảm tuy nhiên ở nhóm TKĐ 
giảm đi rõ rệt và thấp hơn có ý nghĩa thống kê 
tại tất cả các thời điểm so với nhóm OCK với 
p < 0,05. 
IV. BÀN LUẬN 
Thần kinh đùi là nhánh lớn nhất của đám rối 
thần kinh thắt lưng, chi phối vận động của hầu 
hết các nhóm cơ tứ đầu đùi. Kĩ thuật gây tê TK 
đùi dưới hướng dẫn của siêu âm giảm đau sau 
phẫu thuật khớp gối cho thấy kết quả giảm đau 
tốt nhưng lại làm giảm đáng kể sức mạnh của 
cơ tứ đầu đùi, làm tăng nguy cơ ngã sau phẫu 
thuật và làm chậm quá trình vận động sớm sau 
mổ. Trong khi đó, thần kinh hiển là 1 nhánh của 
thần kinh đùi nằm trong ống cơ khép, chi phối 
về cảm giác cho mặt trước, trong của khớp gối. 
Do đó, phong bế OCK cũng chính là phong bế 
chọn lọc TK hiển, cho phép vẫn giảm đau tốt 
cho các phẫu thuật khớp gối mà không làm ảnh 
hưởng đến vận động của các cơ tứ đầu đùi. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, cơ lực cơ tứ 
đầu đùi được đánh giá theo thang điểm cơ lực 
bằng tay (MMT) của động tác duỗi khớp gối 
cho thấy ở thời điểm ngày đầu sau mổ: điểm 
MMT ở nhóm TKĐ 2,73 ± 0,52 thấp hơn có ý 
nghĩa thống kê so với nhóm OCK là 3,63 ± 0,56 
với p < 0,05. Điểm MMT trung bình của nhóm 
OCK là cao hơn so với nhóm TKĐ ở tất cả các 
ngày giảm đau sau mổ với p < 0,05. Tại ngày 
thứ 5 sau mổ, điểm MMT trung bình của nhóm 
OCK là 4,87 ± 0,35 tức là ở mức gần như bình 
thường, còn cơ lực cơ tứ đầu của nhóm TKĐ 
là 3,83 ± 0,46 (ở mức < 4 ảnh hưởng đến tập 
phục hồi chức năng khớp gối). Kết quả nghiên 
cứu của chúng tôi cũng cho thấy kết quả tương 
tự kết quả của các tác giả khác. Donghai Li 
(2015) thực hiện một phân tích gộp cho thấy 
kết quả gây tê OCK giúp cái thiện đáng kể sức 
mạnh cơ tứ đầu đùi và khả năng vận động sớm 
và hiệu quả giảm đau không kém hơn so với 
nhóm TKĐ.⁸ Tác giả Jaeger (2013) cho thấy 
sức mạnh cơ tứ đầu đùi cao hơn đáng kể ở 
nhóm OCK liên tục so với nhóm TKĐ.⁵ Seung 
Suk Seo và cộng sự (2017) cho thấy nhóm 
OCK có điểm MMT cao hơn đáng kể so với 
nhóm TKĐ ở các thời điểm ngày 1, 2 và 3 sau 
phẫu thuật, và khả năng đi bộ của nhóm OCK 
cũng tốt hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm 
TKĐ ở ngày 2 và 3 sau phẫu thuật.⁹ Vận động 
khớp gối sau phẫu thuật cũng bị ảnh hưởng 
rất nhiều bởi điểm đau và sức mạnh cơ tứ đầu 
đùi. Khi điểm đau giữa 2 nhóm OCK, và TKĐ 
là tương đương nhau, độ mất duỗi khớp gối có 
thể gián tiếp đánh giá về sức mạnh cơ tứ đầu 
đùi. Kết quả của chúng tôi cho thấy, tại các thời 
điểm từ ngày thứ 2 trở đi, nhóm OCK có tỷ lệ 
bệnh nhân có tầm vẫn động duỗi khớp gối ở 
mức gần như bình thường và bình thường cao 
hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm TKĐ (lần 
lượt là 83,3%, 90% và 96,7% vs 10%, 13,3%, 
16,7%; p < 0,05). Như vậy, kĩ thuật gây tê OCK 
giúp bảo toàn được đáng kể tầm vận động duỗi 
khớp gối so với gây tê TKĐ tại tất cả các thời 
điểm nghiên cứu. Kết quả này trong nghiên cứu 
của chúng tôi là cũng phù hợp với nghiên cứu 
của Doan Wang và cộng sự năm 2017.10 Tuy 
nhiên, trong nghiên cứu của chúng tôi, với cỡ 
mẫu nhỏ cùng với quá trình đánh giá độ mạnh 
cơ tứ đầu đùi chỉ giới hạn trong một khoảng thời 
gian ngắn (5 ngày) sau phẫu thuật, nên vẫn cần 
phải có những nghiên cứu lớn hơn, theo dõi dài 
hơn để việc đánh giá được chính xác hơn.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
45TCNCYH 125 (1) - 2020
V. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
phương pháp gây tê OCK liên tục có thể giúp 
bảo toàn sức mạnh cơ tứ đầu đùi tốt hơn so 
với nhóm gây tê TKĐ liên tục sau phẫu thuật 
nội soi khớp gối. Điều này thuận lợi cho bệnh 
nhân trong việc tập phục hồi chức năng sau 
mổ, giảm biến chứng và rút ngắn thời gian nằm 
viện cho bệnh nhân.
Lời cảm ơn 
Tôi xin chân thành cảm ơn các bệnh nhân và 
gia đình bệnh nhân, các bác sĩ và điều dưỡng 
khoa Gây mê hồi sức và chống đau, khoa Ngoại 
Chấn thương chỉnh hình, khoa Phục hồi chức 
năng - Bệnh viện Đại học Y Hà Nội đã giúp tôi 
hoàn thành nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. F. Gao, J. Ma, W. Sun et al (2017). Adductor 
Canal Block Versus Femoral Nerve Block for 
Analgesia After Total Knee Arthroplasty: A 
Systematic Review and Meta-analysis. Clin J 
Pain, 33 (4), 356-368.
2. S. Hishiyama, T. Ishiyama, N. Asano et 
al (2014). Femoral nerve block for total knee 
arthroplasty. Masui, 63 (8), 872-876.
3. P. Jaeger, Z. J. Nielsen, M. H. Henningsen 
et al (2013). Adductor canal block versus 
femoral nerve block and quadriceps strength: a 
randomized, double-blind, placebo-controlled, 
crossover study in healthy volunteers. 
Anesthesiology, 118 (2), 409-415.
4. N. A. Shah và N. P. Jain (2014). Is 
continuous adductor canal block better than 
continuous femoral nerve block after total 
knee arthroplasty? Effect on ambulation ability, 
early functional recovery and pain control: a 
randomized controlled trial. J Arthroplasty, 29 
(11), 2224-2229.
5. J. Lund, M. T. Jenstrup, P. Jaeger et al 
(2011). Continuous adductor-canal-blockade 
for adjuvant post-operative analgesia after 
major knee surgery: preliminary results. Acta 
Anaesthesiol Scand, 55 (1), 14-19.
6. Guide to Physical Therapist Practice 
(2001). Second Edition. American Physical 
Therapy Association. Phys Ther, 81 (1), 9-746.
7. J. C. Wera, J. Nyland, C. Ghazi et 
al (2014). International knee documentation 
committee knee survey use after anterior 
cruciate ligament reconstruction: a 2005-2012 
systematic review and world region comparison. 
Arthroscopy, 30 (11), 1505-1512.
8. D. Li, Z. Yang, X. Xie et al (2016). Adductor 
canal block provides better performance after 
total knee arthroplasty compared with femoral 
nerve block: a systematic review and meta-
analysis. Int Orthop, 40 (5), 925-933.
9. S. S. Seo, O. G. Kim, J. H. Seo et al 
(2017). Comparison of the Effect of Continuous 
Femoral Nerve Block and Adductor Canal Block 
after Primary Total Knee Arthroplasty. Clin 
Orthop Surg, 9 (3), 303-309.
10. D. Wang, Y. Yang, Q. Li et al (2017). 
Adductor canal block versus femoral nerve block 
for total knee arthroplasty: a meta-analysis of 
randomized controlled trials. Sci Rep, 7, 40721.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
46 TCNCYH 125 (1) - 2020
Summary
EFFECT ON THE QUADRICEPS STRENGTH OF
 THE CONTINUOUS ADDUCTOR CANAL BLOCK 
POSTOPERATIVE ANALGESIA IN PATIENTS WITH 
TOTAL KNEE ARTHROSCOPY SURGERY
To compare the effect on the quadriceps strength of the continuous adductor canal block 
(ACB) by postoperative analgesia with continuous femoral nerve block (FNB) in patients with 
total knee arthroscopy surgery. 60 patients with total knee arthroscopy surgery were relieved of 
postoperative pain by using continuous adductor canal block (ACB) and continuous femoral nerve 
block (FNB) at Hanoi Medical University Hospital from March - September 2018. VAS points, 
quadriceps strength assessed by manual mechanical test and knee joint stretching were recorded 
for 5 days after surgery. The quadriceps strength of ACB group was significantly higher than FNB 
group at all time of the study (p < 0.05). At 24 hours postoperatively, range of motion in ACB 
group at normal level was significantly higher than FNB group (76.6% vs 6.7%, p < 0.05). The 
quadriceps strength recovered to normal level from the 3rd day after surgery in the ACB group 
compared to the FNB group. Continuous adductor canal block postoperative analgesia was a good 
choice in maintaining the quadriceps strength for patients after total knee arthroscopy surgery.
Keywords: Continuous adductor canal block, quadriceps strength, femoral nerve block, 
knee arthroscopy

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_tren_suc_manh_co_tu_dau_dui_cua_phuong_phap_giam_d.pdf