Ảnh hưởng sức khỏe của ô nhiễm không khí ở Hà Nội: tăng cường nghiên cứu khoa học và chính sách nhằm nâng cao sức khỏe
Chất lượng không khí ở Hà Nội đang ngày càng xấu đi do sự gia tăng của dân số, phương tiện giao thông
cá nhân, khu công nghiệp và các nguồn khí thải từ các khu dân cư và ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
Tuy nhiên hiện nay chưa có nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng sức khỏe của ô nhiễm không khí (ÔNKK)
cũng như thiếu sự hợp tác giữa các cơ quan nghiên cứu và các nhà quyết định chính sách về việc này. Bài
báo này sẽ phân tích tổng quan hiện trạng ÔNKK ở Hà Nội và các nghiên cứu đã thực hiện về ÔNKK, bao
gồm các nguồn phát thải cũng như các khung luật pháp về chất lượng không khí. Chúng tôi sẽ phân tích
các đánh giá tác động sức khỏe của ÔNKK, tập trung đề cập các thiếu hụt của các nghiên cứu này cũng
như mối quan hệ tương hỗ giữa các nhà nghiên cứu và các nhà hoạch định chính sách trong công tác
quan trắc chất lượng không khí và bảo vệ sức khỏe con người do ÔNKK. So sánh với các bài học ở các
nước và những nghiên cứu hiện tại ở Việt Nam, chúng tôi đề xuất và thảo luận hướng nghiên cứu dùng
cách tiếp cận đánh giá nguy cơ nhằm tăng cường các nghiên cứu và chính sách để nâng cao sức khỏe do
ÔNKK ở Hà Nội
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng sức khỏe của ô nhiễm không khí ở Hà Nội: tăng cường nghiên cứu khoa học và chính sách nhằm nâng cao sức khỏe
67Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXIII, số 4 (140) ẢNH HƯỞNG SỨC KHỎE CỦA Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ Ở HÀ NỘI: TĂNG CƯỜNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CHÍNH SÁCH NHẰM NÂNG CAO SỨC KHỎE Nguyễn Việt Hùng1,2*, Lê Thị Thanh Hương3 1Trung tâm nghiên cứu Y tế công cộng và Sinh thái, Trường Đại học Y tế công cộng, Hà Nội 2SwissTPH, ILRI, Sandec/Eawag 3Bộ môn Sức khỏe môi trường, Trường Đại học Y tế công cộng, Hà Nội TÓM TẮT Chất lượng không khí ở Hà Nội đang ngày càng xấu đi do sự gia tăng của dân số, phương tiện giao thông cá nhân, khu công nghiệp và các nguồn khí thải từ các khu dân cư và ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Tuy nhiên hiện nay chưa có nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng sức khỏe của ô nhiễm không khí (ÔNKK) cũng như thiếu sự hợp tác giữa các cơ quan nghiên cứu và các nhà quyết định chính sách về việc này. Bài báo này sẽ phân tích tổng quan hiện trạng ÔNKK ở Hà Nội và các nghiên cứu đã thực hiện về ÔNKK, bao gồm các nguồn phát thải cũng như các khung luật pháp về chất lượng không khí. Chúng tôi sẽ phân tích các đánh giá tác động sức khỏe của ÔNKK, tập trung đề cập các thiếu hụt của các nghiên cứu này cũng như mối quan hệ tương hỗ giữa các nhà nghiên cứu và các nhà hoạch định chính sách trong công tác quan trắc chất lượng không khí và bảo vệ sức khỏe con người do ÔNKK. So sánh với các bài học ở các nước và những nghiên cứu hiện tại ở Việt Nam, chúng tôi đề xuất và thảo luận hướng nghiên cứu dùng cách tiếp cận đánh giá nguy cơ nhằm tăng cường các nghiên cứu và chính sách để nâng cao sức khỏe do ÔNKK ở Hà Nội. Từ khóa: Ô nhiễm không khí, đánh giá nguy cơ, quyết định chính sách, đánh giá tác động sức khỏe *Tác giả: Nguyễn Việt Hùng Địa chỉ: Trường Đại học Y tế công cộng Điện thoại: 04.6 73316 Email: [email protected] Ngày nhận bài: 8/4/ 013 Ngày gửi phản biện: 11/4/ 013 Ngày đăng bài: 8/6/ 013 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Trái với xu hướng ở các nước phương Tây nơi mà chất lượng không khí đang dần được cải thiện thì ô nhiễm không khí (ÔNKK) ở các đô thị lớn ở Châu Á không những rất cao mà còn ngày càng xấu đi [1]. Hà Nội là thành phố lớn thứ hai ở Việt Nam với dân số 6,5 triệu người, trong đó có ,5 triệu người sinh sống ở các quận nội thành. Theo các nghiên cứu của Hopke và Cohen và cộng sự trong năm 008, Hà Nội là một trong những thành phố có tình trạng ÔNKK tồi tệ nhất ở khu vực Châu Á [ ]. Một nghiên cứu thử nghiệm về phơi nhiễm với ÔNKK do giao thông ở Hà Nội đã chỉ ra rằng nồng độ bình quân bụi khí PM10 lên tới 455 µg/m3[3]. Nồng độ PM10 trung bình theo năm đo ở các vùng đô thị là 11 µg/m3 năm 003, vượt xa so với mức 0 µg/m3 mức giới hạn nhằm bảo vệ sức khỏe con người do Tổ chức Y tế thế giới (WHO) qui định [4] [5]. Một số dự án do văn phòng Châu Âu thực hiện nhằm đánh giá chất lượng không khí ở Châu Âu đã chỉ ra việc cần phải rà soát lại hướng dẫn về đánh giá tác động của chất lượng không khí lên sức khỏe con người của WHO do những tác động này xảy ở mức độ thấp hơn so với tiêu chuẩn của WHO [6]. Hopke và Cohen và cộng sự năm 008 đã kết luận rằng khí thải giao thông là nguyên nhân chủ yếu gây ra ÔNKK tại Hà Nội 68 Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXIII, số 4 (140) và nồng độ các bon đen - một dạng bồ hóng tạo ra từ khí thải giao thông - là rất cao [ ]. Ngoài ra, khí thải công nghiệp và khí thải từ nhà bếp của các hộgia đình cũng là những nguồn gây ÔNKK [7]. ÔNKK xung quanh và trong nhà đang trở thành nguyên nhân lớn nhất gây tử vong do môi trường ở Việt Nam, được đánh giá là ngang bằng với nguyên nhân gây tử vong do thuốc lá [8]. Để giải quyết vấn đề ÔNKK ở Hà Nội, trong một thập kỉ qua hàng loạt các hoạt động đã được thực hiện trong đó có sự tham gia của nhiều bên liên quan. Các tổ chức của Thụy Sỹ cùng với các tổ chức nước ngoài khác như Chương trình hợp tác Thụy Sỹ - Việt Nam về làm sạch không khí, Mạng lưới làm sạch không khí ở các thành phố Châu Á, hay cơ quan Hợp tác phát triển Đan Mạch cũng tham gia những hoạt động này. Những chương trình này tập trung vào giám sát chất lượng không khí, đánh giá các biện pháp đo lường số liệu từ các trạm quan sát hiện có, hoặc dự báo sự thay đổi của chất lượng không khí trong những kịch bản chính sách khác nhau [4] [9]. Tất cả các chương trình trên nhằm thúc đẩy những cách tiếp cận có sự tham gia và chủ yếu tập trung vào chính sách và các hoạt động nhằm giảm thiểu ÔNKK, trong đó bao gồm cả những kế hoạch quan trắc mới đang được thực hiện tại Hà Nội. Tuy nhiên, các nghiên cứu liên quan đến sức khỏe do ảnh hưởng của ÔNKK-một trong những yếu tố quan trọng của chính sách bền vững, hướng tới nhu cầu của người dân địa phương - lại chưa được quan tâm. Hơn nữa, những cố gắng trong công tác quan trắc ÔNKK và chính sách chưa được đặt trong bối cảnh của y tế công cộng, một trong những lĩnh vực giúp cập nhật và củng cố chính sách về làm sạch không khí trong tương lai. Cho dù người dân ý thức được chất lượng không khí ở Hà Nội hiện đang ở mức rất thấp, những bằng chứng khoa học về những ảnh hưởng của chất lượng không khí lên sức khỏe của người dân địa phương này cho đến nay gần như không có. Các bằng chứng ở các nước phương Tây cho thấy việc cải thiện bền vững chất lượng không khí dựa trên những bằng chứng thu được có thể đạt được một cách hiệu quả thông qua việc củng cố song song bốn lĩnh vực bao gồm: 1) Nghiên cứu và quan trắc chất lượng không khí; ) Nghiên cứu về ÔNKK và sức khỏe; 3) Đánh giá toàn diện tác động ÔNKK lên sức khỏe con người; 4) Quản lý và thiết lập chính sách làm sạch không khí một cách hợp lý. Do hiện còn thiếu những nghiên cứu y tế công cộng và đánh giá tác động nên các cơ quan chính phủ gặp khó khăn trong việc thực hiện các biện pháp đối phó với ÔNKK. Hơn nữa việc thiếu vắng những đánh giá ảnh hưởng của ÔNKK lên sức khỏe của người dân làm cho việc xác định gánh nặng bệnh tật do ÔNKK gây nên cũng như những thiệt hại kinh tế liên quan không thể thực hiện được. Như đã chỉ ra trong những báo cáo cập nhật gần đây về chất lượng không khí toàn cầu, chất lượng không khí ở Việt Nam được dự đoán là sẽ ngày một xấu đi [1]. Từ mấy thập kỉ gần đây, số lượng phương tiện giao thông cá nhân tăng lên nhanh chóng trong khi đó hệ thống giao thông công cộng lại hạn chế. Việc đánh giá được gánh nặng sức khỏe trong tương lai và những lợi ích của chính sách làm cho không khí sạch hơn rất quan trọng cho việc xây dựng các chính sách môi trường. Để xây dựng chương trình làm sạch không khí tại Việt Nam thông qua việc mở rộng các chương trình về sức khỏe môi trường đang được thực hiện (tăng cường những nghiên cứu về ÔNKK và những hoạt động lồng ghép đánh giá ảnh hưởng lên sức khỏe) cần có sự hợp tác giữa các cơ quan nghiên cứu về chất lượng không khí, các nhà lập pháp và các nhà khoa học nghiên cứu về sức khỏe môi trường ở Hà Nội. Các chính sách và những hoạt động hiện tại liên quan tới vấn đề ÔNKK và những chính sách mới cần phải được phân tích để tìm hiểu sự ảnh hưởng của chúng tới cộng đồng. II. HIỆN TRẠNG ÔNKK Ở HÀ NỘI VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN 2.1. Các nghiên cứu đã thực hiện về ÔNKK ở Hà Nội Thông qua các chương trình phát triển, rất nhiều hoạt động liên quan tới việc đánh giá chất lượng không khí đã được thực hiện ở Việt Nam 69Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXIII, số 4 (140) và Hà Nội trong 10 năm qua.Việt Nam là thành viên của mạng lưới “Không khí sạch cho các thành phố châu Á”(CAI-Asia). CAI-Asia đã được thành lập vào năm 001 bởi Ngân hàng phát triển châu Á (Asian Development Bank), Ngân hàng thế giới (World Bank), và Chương trình Hợp tác trong vấn đề môi trường giữa Hoa Kỳ và Châu Á (USEAP), USAID. Mạng lưới này nhằm thúc đẩy nâng cao chất lượng không khí của các thành phố với mục đích chính là phổ biến “Kiến thức cho chính sách và hoạt động giúp giảm ÔNKK, khí nhà kính phát sinh từ giao thông, năng lượng và các yếu tố khác” CAI-Asia là một nền tảng cho các hoạt động liên quan khác như khuyến khích phát thải sạch hơn cho phương tiện có động cơ. Trong khuôn khổ của dự án cung cấp thông tin về môi trường và trợ giúp các hoạt động quản lý và chính sách môi trường, do Cơ quan Phát triển Quốc tế Đan Mạch (DANIDA, 003- 006) tiến hành, một luận tiến sĩ (do chính phủ Việt Nam, DANIDA, và Viện Nghiên cứu Môi trường Quốc gia Đan Mạch tài trợ) đã đánh giá điều kiện không khí ở Hà Nội và chỉ ra một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng không khí [9]. Cũng trong luận văn này, các mô hình phân tán khác nhau đã được phát triển và đánh giá tiềm năng trở thành công cụ cho đánh giá và quản lý chất lượng không khí cho tương lai tại Việt Nam.Tuy nhiên, luận văn này cũng chỉ ra một số thách thức trong việc áp dụng các mô hình nói trên trong bối cảnh chất lượng của số liệu không cao. Chương trình Không khí sạch Việt Nam- Thụy Sỹ (SVCAP) là một dự án tài trợ bởi Cơ quan Phát triển và Hợp tác Thụy Sỹ (SDC) vào khoảng giữa năm 004 tới năm 008. Mục đích của SVCAP là giúp cho tình trạng ÔNKK không bị trầm trọng thêm. Nghiên cứu bao gồm việc xây dựng các kế hoạch để thực hiện một hệ thống giám sát chất lượng không khí, một chiến dịch lấy mẫu dài hạn lần đầu tiên ở Việt Nam cũng như xây dựng một chương trình can thiệp phát thải thí điểm cho Hà Nội. Nghiên cứu khuyến nghị một một kế hoạch hành động nhanh chóng để nâng cao nhận thức về tác động của ÔNKK và sức khỏe tại Hà Nội, và đối thoại trên các mặt chính sách, kinh tế và quy định để thúc đẩy các chiến lược cho việc cải thiện ÔNKK ở Hà Nội [10]. Trong tương lai, việc thành lập một mạng lưới giám sát ÔNKK rộng hơn và xây dựng các phương pháp dự báo những thay đổi trên biểu đồ phát thải trong tương lai nhằm hỗ trợ cho việc ra quyết định về các vấn đề liên quan. 2.2. Thực trạng ô nhiễm không khí ở Hà Nội 2.2.1. Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới chất lượng không khí Ngoài Luật Bảo vệ môi trường và tiêu chuẩn môi trường quốc gia được ban hành vào năm 005, các khung quy định quốc gia hiện nay xung quanh việc kiểm soát ÔNKK ở Việt Nam hầu hết bao gồm hàng loạt quyết định cho việc giảm phát thải (Bảng 1). Ở Hà Nội, chất lượng không khí kém đã được giải quyết với một số chương trình bổ sung nhằm giảm bụi phát sinh từ hoạt động giao thông vận tải và xây dựng, tuy nhiên các biện pháp này đã được chứng minh là không cải thiện được chất lượng không khí. Năm 010, kế hoạch hành động về chất lượng không khí được xây dựng nhằm thúc đẩy chất lượng không khí, tầm nhìn đến năm 0 0 trong đó nêu rõ sự cần thiết phải xây dựng chiến lược cho việc giám sát chất lượng không khí tốt hơn, tăng cường năng lực, nhận thức, và mô hình hóa ÔNKK[10]. 70 Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXIII, số 4 (140) Văn bản quy phạm pháp luật Nội dung Cấp quốc gia Luật Bảo vệ Môi trường (2005) Quyết định số 265/2003, Chiến lược Bảo vệ Môi Trường đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 Quyết định số 249/2005, Tiêu chuẩn phát thải cho các phương tiện Quyết định số 64/2003 Quyết định số 79/2006 Tiêu chuẩn môi trường Quốc gia Kiểm soát khí phát thải Thiết lập các chương trình ưu tiên để cải thiện chất lượng không khí đô thị Áp dụng tiêu chuẩn khí thải Euro 2 Xử lý các cơ sở ô nhiễm nặng Giảm tiêu thụ năng lượng Chất lượng không khí môi trường xung quanh, chất gây ô nhiễm độc hại, khí thải công nghiệp, khí thải giao thông (Euro 2 tương đương) Cấp Thành phố Hà Nội Chương trình giảm thiểu khói bụi (2005) Kế hoạch hành động cho bảo vệ môi trường Hà Nội tới năm 2010, tầm nhìn 2020 Quyết định số 02/2004 Yêu cầu đối với các công trình xây dựng Kế hoạch cải thiện chất lượng không khí bởi Sở tài nguyên môi trường, Phòng Môi trường và Nhà ở Giảm khói bụi trong lĩnh vực xây dựng 2.2.2. Nguồn phát thải và chất lượng không khí Trong năm 008, một nghiên cứu đánh giá phát thải không khí từ các nguồn đốt cháy đã được thực hiện để xác định nguồn ÔNKK chính ở Hà Nội, trong đó lấy năm 005 là năm cơ sở [10]. Đánh giá này đã được thực hiện bằng cách sử dụng một công cụ tính toán đơn giản để xác định mức độ hoạt động của các lĩnh vực trong toàn quốc, của ngành công nghiệp và giao thông vận tải và các yếu tố phát thải từ các địa phương hoặc các khu vực khác tùy thuộc vào dữ liệu sẵn có. Nghiên cứu đánh giá cho thấy PM10 được phát thải chủ yếu từ các hoạt động công nghiệp, cao hơn so với lượng PM10 trong khí thải giao thông, trong khi đó NO phần lớn được tạo ra từ các phương tiện giao thông. Trong một nghiên cứu gần đây nhằm đánh giá về tiềm năng sử dụng kỹ thuật mô hình phân tán để vẽ bản đồ nồng độ ÔNKK tại Hà Nội, lượng khí thải xe máy đã được chứng minh là nguồn phát thải chính của các phương tiện giao thông, chiếm 9 - 95 % của tất cả các khí thải xe cộ và đóng góp 56 % lượng khí thải NOx, 65 % lượng khí thải SO , 94 % CO và 86 % PM10 [9]. Trên toàn quốc hiện có 1 trạm giám sát chất lượng không khí, trong đó có 5 trạm giám sát chất lượng không khí tự động và hai trạm lưu động tại Hà Nội. Từ những năm 90, các thiết bị đã đo lường theo giờ các chỉ số PM10, NO , SO , CO và mức độ O3 tại các tại cùng một thời điểm và các thời điểm khác nhau. Trung bình hàng năm như báo cáo trong năm 003 với một trong các trạm Hà Nội được thể hiện trong Bảng . Chỉ số ô nhiễm Trung bình Lớn nhất CO (µg/m3) 2520 8750 NO2 (µg/m3) 33 90 SO2 (µg/m3) 38 142 PM10 (µg/m3) 112 589 O3 (µg/m3) 19 42 Bảng 2: Nồng độ trung bình năm 2003 ở mức nền của môi trường đô thị tại Hà Nội [10] Bảng 1. Các văn bản pháp lý để quản lý chất lượng không khí ở Việt Nam và Hà Nội [10]. 71Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXIII, số 4 (140) Trước đây, các trạm đo lường không khí tại Hà Nội chủ yếu đo điều kiện không khí ở các khu đô thị nhưng hiện nay các trạm này chỉ đo các chỉ số không khí tại các trục đường giao thông do sự phát triển nhanh của Hà Nội. Các thiết bị được Bộ Tài nguyên và Môi trường (Bộ TN & MT) cung cấp. Một số cơ quan sử dụng thiết bị này nhưng lại không có qui định chung về phương pháp xử lý số liệu.Tại một vài trạm quan trắc, một số nghiên cứu ngắn hạn trong vài tuần đến vài tháng đã được áp dụng. Tuy nhiên, vẫn chưa có đánh giá nào về chất lượng của số liệu về ÔNKK sử dụng trong nghiên cứu sức khỏe. Kế hoạch đề xuất về hành động chất lượng không khí cho Hà Nội trong năm 010 đề xuất thêm bảy trạm giám sát chất lượng không khí tự động, hơn 5 trạm hiện đang được sử dụng. Sở Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm thực hiện kế hoạch. Ở giai đoạn đầu tiên, Sở sẽ xây dựng và hoạt động ba trạm quan trắc chất lượng không khí tại các khu vực ÔNKK cao (được đặt vào năm 015). Các chất gây ô nhiễm phải được theo dõi, tuy nhiên phương pháp và địa điểm đặt trạm quan trắc không được thảo luận với hoặc không nhận được sự đồng thuận của tất cả các bên liên quan như các chuyên gia y tế công cộng ÔNKK. Trong một số trường hợp, chỉ số PM .5 được cho là tốt hơn hết để đại diện cho mức độ ÔNKK thay vì dùng các chỉ số PM10 và như dự kiến ban đầu. Trong trường hợp này, có thể sử dụng chỉ số PM .5. Dữ liệu trên PM .5 chỉ được thực hiện thông qua các dự án nghiên cứu nhưng chủ yếu bị giới hạn trong 4 giờ lấy mẫu trong khoảng thời gian ngắn [11] [1 ]. Điều kiện khí h ... khi nghiên cứu này đã cố gắng đưa ra những con số ước tính cấp khu vực và toàn cầu thì những thống kê cụ thể cho những thành phố lại không có. 7 Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXIII, số 4 (140) Hình 1. Gánh nặng bệnh tật phân bổ cho 15 yếu tố nguy cơ năm 2010 tính bằng % DALY ở Việt Nam Tại Hà Nội hiện chưa có một đánh giá nào về ảnh hưởng của ÔNKK mặc dù một vài đánh giá thực hiện bởi SVACP có nêu ra một số vấn đề về ÔNKK [10]. Trong nghiên cứu này, nồng độ trung bình của PM10 được dự báo cho năm 0 0 bằng cách tính toán tổng lượng khí thải từ tất cả các nguồn. Sử dụng phương pháp đánh giá gánh nặng bệnh tật và sử dụng số liệu từ một số báo cáo khác, sự thay đổi về ảnh hưởng của sức khỏe giữa năm tiến hành nghiên cứu ( 005) và thời điểm ước lượng trong tương lai được thể hiện trên một số kết quả, chẳng hạn tỉ lệ tử vong hay các bệnh hô hấp cấp tính. Phân tích này chỉ ra rằng tử vong do các bệnh liên quan đến ÔNKK sẽ tăng gấp 4 lần vào năm 0 0 nếu những biện pháp và công nghệ mới không được áp dụng. Tuy nhiên, bản đánh giá không tính đến những nguồn cụ thể tại địa phương góp phần gây ÔNKK như việc sử dụng quá nhiều xe máy, hay một số tác nhân gây bệnh khác lại không được tính đến. Tử vong do các bệnh liên quan đến tim phổi chiếm tỉ lệ rất cao trong gánh nặng bệnh tật tại Việt Nam, vì vậy, đánh giá tác động sức khỏe cần quan tâm đến những yếu tố dịch tễ này. Cần có cách tiếp cận hiệu quả để sử dụng những chỉ số ô nhiễm liên quan đến việc tiếp xúc với khí thải giao thông chính xác và hiệu quả và so sánh kết quả trong những hoàn cảnh chính sách khác nhau và ở những thời điểm khác nhau.Tỉ lệ tử vong này sẽ giúp xác định được đâu là phương pháp và cơ hội hiệu quả nhất để giảm ÔNKK và ảnh hưởng của ÔNKK lên sức khỏe cộng đồng ở Hà Nội. Để có một chính sách giảm thiểu ÔNKK hiệu quả, cần có sự kết hợp của nhiều yếu tố như chính sách đô thị hợp lý và sự tham gia của nhiều bên liên quan. Một điều tra thực hiện vào năm 005 và 006 về quản lý chất lượng không khí đô thị ở Hà Nội chỉ ra rằng nhà quản lý ưu tiên giảm thiểu ùn tắc giao thông và ÔNKK ở lĩnh vực giao thông, còn người dân địa phương lại quan tâm đến việc cải thiện chất lượng giao thông công cộng và phát triển vùng không gian xanh [ 0]. Đánh giá tác động sức khỏe của ÔNKK có thể so sánh với kết quả của nhiều chiến lược mang tính giả thiết khác nhau trong đó có cả những chiến lược do tất cả các bên liên quan đề xuất nhằm củng cố quyết định ưu tiên y tế công cộng vào những nghiên cứu về ÔNKK. 73Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXIII, số 4 (140) 2.4. Những nghiên cứu ảnh hưởng sức khỏe của ô nhiễm không khí ở Hà Nội Trong khi các cấp độ ÔNKK ở Hà Nội đang chỉ ở mức trung bình, phơi nhiễm với ô nhiễm do giao thông lại cao hơn so với các đô thị Châu Âu. Một nghiên cứu thử nghiệm đưa ra được những ước lượng ban đầu về phơi nhiễm cá nhân với PM10 và CO khi tham gia giao thông ở bốn con đường chính ở Hà Nội đã cho thấy giá trị trung bình của nồng độ PM10 đạt tới 455μg/m3 với nộng độ đạt tới 580 μg/m3 khi đi xe máy, và 495 μg/m3 khi đi bộ, 408 μg/m3 khi di chuyển bằng ô tô, và 6 μg/m3 khi đi xe buýt [ 1]. Các loại phương tiện khác nhau cùng với tình trạng sức khỏe khác nhau của mỗi người có thể dẫn tới những hậu quả khác nhau về sức khỏe khi người dân phải phơi nhiễm với ÔNKK, và hậu quả này sẽ khác nhau so với cộng đồng ở Châu Âu hay Mỹ. Do những ước tính về gánh nặng bệnh tật bị chi phối bởi nguy cơ được sử dụng trong các mô hình, việc nghiên cứu về các đánh giá nguy cơ là rất cần thiết. Một nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng tỉ lệ viêm mũi dị ứng ở người lớn cũng như một số kết quả liên quan đến bệnh hen ở các vùng thành thị ở Hà Nội là 30%, cao hơn so với những vùng nông thôn là 10% [ ]. ÔNKK ở trong nhà và ngoài trời từ lâu đã là nguy cơ làm gia tăng bệnh hen suyễn trong khi đó ô nhiễm do khí thải giao thông là nguyên nhân gây nên bệnh hen ở trẻ em. Tuy nhiên phân tích không tìm hiểu vai trò của các yếu tố nguy cơ liên quan đến môi trường đối với người dân Hà Nội. Hiện tại, việc thiếu những nghiên cứu về ảnh hưởng sức khỏe giữa ô nhiễm không khí và sức khỏe ở Hà Nội là rào cản cho truyền thông về sự quan trọng của ÔNKK với các nhà hoạch định chính sách. Đến nay chưa có nghiên cứu nào về ảnh hưởng của ÔNKK ngoài trời hàng ngày và tỷ lệ tử vong tại Hà Nội. Loại nghiên cứu này thường được thực hiện đầu tiên và sẽ góp phần vào việc tiến hành một kế hoạch nghiên cứu sâu hơn về ảnh hưởng sức khỏe do ÔNKK ở các quốc gia phát triển [ 3] .Sáng kiến nghiên cứu APHEA ở châu Âu đã cho thấy, các nhà khoa học tiến hành những nghiên cứu như trên đã được đánh giá cao bởi chính quyền địa phương và các đối tác trong các cuộc thảo luận chính sách địa phương. Một nghiên cứu gần đây được tiến hành tại thành phố Hồ Chí Minh là minh chứng cho việc các nghiên cứu dạng này có thể giúp đưa các vấn đề ÔNKK lên chương trình nghị sự trong nước cũng như quốc tế tại Việt Nam [ 4]. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu thu hẹp những thiếu hụt về hiểu biết về những ảnh hưởng của ÔNKK tới sức khỏe cộng đồng ở Việt Nam. Nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh tập trung vào điều tra mối liên hệ giữa mức độ trung bình ÔNKK hàng ngày và tình trạng nhập viện vì viêm nhiễm cấp tính đường hô hấp dưới (ALRI) ở trẻ em. ALRI là gánh nặng bệnh tật lớn nhất ở trẻ em chỉ sau bệnh tiêu chảy ở hầu hết các nước có thu nhập thấp. Kết quả cho thấy phơi nhiễm với không khí bị ô nhiễm làm tăng số lượng trẻ nhập viện trong mùa khô (tháng 11 đến tháng 4), mà NO và SO là nguyên nhân chính. Sự gia tăng nguy cơ mắc ALRI dao động từ 7 % đến 18 % mỗi khi khí NO tăng 10 μg/m3. Kết quả này có thể giúp nâng cao nhận thức về vấn đề chất lượng không khí và những ảnh hưởng tới sức khỏe. Nghiên cứu cũng xác định nhu cầu về đánh giá chất lượng của số liệu hiện có về ô nhiễm không khí trước khi sử dụng chúng cho các nghiên cứu sâu hơn. 2.5. Đánh giá nguy cơ – tiếp cận nghiên cứu nhằm tăng cường các nghiên cứu và chính sách nhằm nâng cao sức khỏe do ô nhiễm không khí ở Hà Nội Với những lí do nêu trên, chúng tôi thấy rằng những thông tin và bằng chứng về ảnh hưởng của của ÔNKK lên sức khỏe ở Việt Nam còn rất hạn chế, những nghiên cứu khởi điểm và khai thác sâu ở lĩnh vực này là cần thiết và quan trọng để tăng cường sự hiểu biết cũng như cung cấp thông tin cho hoạch định chính sách. Chúng tôi đề xuất cách tiếp cận dựa vào đánh giá nguy cơ để thực hiện những nghiên cứu mới về lĩnh vực ÔNKK và sức khỏe cần được xây dựng. Hiện tại, chúng tôi đang xây dựng nghiên cứu “Tác động sức khỏe của ô nhiễm không khí ở Hà Nội: Tăng cường các nghiên cứu khoa học và chính sách nhằm nâng cao sức khỏe” Các nhà nghiên cứu và các Bộ liên quan như Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thảo luận 74 Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXIII, số 4 (140) với nhau để đề xuất nghiên cứu này và sự hợp tác này là rất quan trọng. Mục tiêu của nghiên cứu này là đưa các nghiên cứu về sức khỏe môi trường và đánh giá ảnh hưởng sức khỏe vào quá trình ra quyết định chính sách. Mục tiêu cụ thể là: i) Tập hợp những chuyên gia quan trắc ÔNKK, nhà lãnh đạo, các bên liên quan trong việc đưa ra quyết định liên quan tới vấn đề này và các cơ quan hoạt động về y tế công cộng ở Hà Nội thông qua những phương pháp tiếp cận có sự tham gia xác định và phát triển các chương trình khung về đánh giá ảnh hưởng của ÔNKK lên sức khỏe con người ở Hà Nội dựa trên nhu cầu và sự tương thích về chính sách, ii) Phát triển phương pháp và thực hiện đánh giá ảnh hưởng của ÔNKK lên sức khỏe con người như đã đề cập ở mục tiêu đầu tiên. Đánh giá gánh nặng bệnh tật gây nên bởi ÔNKK hiện tại và những lợi ích của việc triển khai các chính sách về chất lượng không khí của chính quyền địa phương. iii) Trao đổi kiến thức trong việc thực hiện phân tích tổng quát mối quan hệ giữa các cấp độ ô nhiễm không khí hàng ngày và tử vong. Nghiên cứu tổng quát này sẽ là công cụ chính trong việc củng cố những nghiên cứu về sức khỏe và thông báo tác hại của ÔNKK với những bên có liên quan. Một trong những cách tiếp cận chính là phương pháp đánh giá nguy cơ sức khỏe mà các hoạt động chính sẽ là: - Xây dựng cơ sở dữ liệu và cho tra cứu mở (open access) về số liệu quan trắc ÔNKK và bệnh tật. Bộ TNMT đã và đang làm về số liệu quan trắc nhưng cần nhân rộng thêm. Tiếp tục phát triển thêm các hệ thống quan trắc tự động kết hợp với phương pháp theo dõi thụ động và sinh học (biomonitoring). - Nghiên cứu ảnh hưởng sức khỏe của ÔNKK: tận dụng các số liệu sẵn có của quản trắc đã và đang làm, kết hợp với các số liệu của bệnh viện và hệ thống y tế nói chung phát triển nghiên cứu đánh giá phơi nhiễm. - Xây dựng các mô hình đánh giá nguy cơ ÔNKK tác động lên sức khỏe. - Truyền thông tin về ảnh hưởng ÔNKK lên sức khỏe đến các bên liên quan: người dân chịu nguy cơ cao từ đó đề xuất các biện pháp quản lí nguy cơ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Brauer, M., et al., Exposure assessment for estimation of the global burden of disease attributable to outdoor air pollution. Environ Sci Technol, 01 . 46( ): p. 65 -60. . Hopke, P.K., et al., Urban air quality in the Asian region. Sci Total Environ, 008. 404(1): p. 103-1 . 3. Saksena, S., et al., Commuters’ exposure to particulate matter and carbon monoxide in Hanoi, Vietnam: a pilot study. East-West Center Working Papers. Environmental Change, Vulnerability, and Governance Se- ries. No. 64. pp30., 006. 4. Tuan, N.Q., et al., A 0 0 Vision: An Inte- grated Policy Reform for Air Quality Man- agement in Hanoi, Viet Nam. Available at SSRN: 9377 or 139/ssrn.1 9377 , 008. 5. WHO, World Health Organization. WHO Air quality guidelines for particulate matter, ozone, nitrogen dioxide and sulfur dioxide. Global update 005. Summary of risk as- sessment. WHO/SDE/PHE/OEH/06.0 . 005. 6. WHO, Review of evidence on health aspects of air pollution – REVIHAAP Project. 013, WHO Regional Office for Europe: Scher- figsvej 8 DK- 100 Copenhagen Ø, Den- mark. 7. MONRE, Ministry of Natural Resources and Environment (MONRE). Vietnam En- vironment Report. MONRE. 170 pp. 010. 8. Institute for Health Metrics and Evaluation, Global Burden of Disease (GBD) Visualiza- tions. 013, Institute for Health Metrics and Evaluation. 9. Hung, N., Urban air quality modelling and management in Hanoi, Vietnam. PhD thesis, Aarthus University, National Environmental Research Institute, Denmark. 11 pp. 010. 10.Guttikunda, S., et al., A 0 0 Vivion: An in- tegrated policy reform for air quality man- agement in Hanoi, Vietnam. Proceedings of 75Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXIII, số 4 (140) the 5th Annual Better Air Quality Confer- ence for Asian Cities, 008. 11.Hien, P., P. Loc, and P. Dao, Air pollution episodes associated with East Asian winter monsoons. Science of the Total Environ- ment 409, 5065-5068, 011. 1 .Kim Oanh, N.T., et al., Particulate air pollu- tion in six Asian cities: Spatial and temporal distributions, and associated sources. At- mospheric Environment, 006. 40(18): p. 3367-3380. 13.Künzli, N., L. Perez, and R. Rapp, Air Qual- ity and Health. 010, ERS: Lausanne, Switzerland. p. 7 . 14.Hazenkamp-von Arx, M.E., et al., Impacts of highway traffic exhaust in alpine valleys on the respiratory health in adults: a cross- sectional study. Environ Health, 011. 10(13): p. 1-9. 15.Künzli, N., et al., An attributable risk model for exposures assumed to cause both chronic disease and its exacerbations. Epidemiology, 008. 19( ): p. 179-85. 16.Perez, L., et al., Chronic burden of near- roadway traffic pollution in 10 European cities (APHEKOM network). Eur Respir J, 013. 17.HEI, Health Effects Institute. Public health and air pollution in Asia: Science Access on the Net (1980– 007), 008:1- 8. 008. 18.Cohen, A.J., et al., .Urban Air Pollution. In Comparative Quantification of Health Risks: Global and Regional Burden of Dis- ease Attributable to Selected Major Risk Factors, 1st ed.; Ezzati, M., Rodgers, A. D., Lopez, A. D., and Murray, C. J. L., Eds.; World Health Organization: Geneva, 004; Vol. , pp 1353– 1453. 004. 19.Lim, S.S., et al., A comparative risk assess- ment of burden of disease and injury attrib- utable to 67 risk factors and risk factor clusters in 1 regions, 1990- 010: a system- atic analysis for the Global Burden of Dis- ease Study 010. Lancet, 01 . 380(9859): p. 4-60. 0.Nugroho, S., et al., Measuring social capac- ity for urban air quality management in megacities in South East Asia based on atti- tudinal survey in Jakarta and Hanoi. Porceeding International Sustainable Devel- opment Research Conference. , 010. 1.Hung, N.T., et al., Air pollution modeling at road sides using the operational street pol- lution model-a case study in Hanoi, Viet- nam. J Air Waste Manag Assoc, 010. 60(11): p. 1315- 6. .Lam, H.T., et al., Increase in asthma and a high prevalence of bronchitis: results from a population study among adults in urban and rural Vietnam. Respir Med, 010. 105( ): p. 177-85. 3.Katsouyanni, K., et al., Short-term effects of air pollution on health: a European approach using epidemiological time-series data. The APHEA project: background, objectives, de- sign. Eur Respir J, 1995. 8: p. 1030-38. 4.Le, T.G., et al., Effects of short-term expo- sure to air pollution on hospital admissions of young children for acute lower respiratory infections in Ho Chi Minh City, Vietnam. Res Rep Health Eff Inst, 01 (169): p. 5-7 ; discussion 73-83. 76 Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXIII, số 4 (140) AIR POLLUTION AS A HEALTH ISSUE IN HANOI: AN OPPORTUNITY FOR INTENSIFIED RESEARCH TO INFORM PUBLIC POLICY Nguyen Viet Hung1,2, Le Thi Thanh Huong3 1Center for Public Health and Ecosystem Research (CENPHER), Hanoi School of Public Health 2Swiss TPH, ILRI, Sandec/Eawag 3Department of Environmental Health, Hanoi School of Public Health As a result of increasing in population, per- sonal vehicles, industrial zones and household emission, the air quality in Hanoi is becoming deteriorated and affecting human health. There is a gap in research on the relationship be- tween air pollution and human health and in- volvement of policy makers in these issues. This paper reviews all research related to air pollution in Hanoi as well as briefs on the cur- rent situation of the local air pollution, in which large attention will be paid to emission source and the legal framework for air quality in Hanoi. We focus on filling the gap in previ- ous evaluations on impact of air pollution on human health and the collaboration between researchers and policy makers in monitoring air quality and protecting human health. From the lessons learned in other countries and the previous studies in Vietnam, we recommend using risk assessment as a tool to analyze the relationship between air pollution and human health to inform policy. Keywords: Air pollution, risk assessment, policy maker, health impact assessment.
File đính kèm:
anh_huong_suc_khoe_cua_o_nhiem_khong_khi_o_ha_noi_tang_cuong.pdf

