Ảnh hưởng của tuổi đời, trình độ học vấn thành viên hội đồng quản trị đến hiệu quả tài chính của doanh nghiệp ngành bất động sản

Tóm tắt:

Nghiên cứu sử dụng số liệu của 27 công ty trong lĩnh vực bất động sản đang niêm yết trên thị trường chứng khoán

Việt Nam (bao gồm cả HNX và HOSE), các biến được đưa vào nghiên cứu là các biến liên quan đến lợi nhuận, nhằm

xem xét tác động của chúng đến hiệu quả tài chính của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy, thành viên hội

đồng quản trị (HĐQT) là người nước ngoài có tác động ngược chiều đến tỷ số lợi nhuận ròng trên tài sản (ROA);

độ tuổi của thành viên ban lãnh đạo có tác động cùng chiều với tỷ số lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE) của

doanh nghiệp. Nghiên cứu cũng cho thấy, cổ tức chi trả của doanh nghiệp có tác động tích cực với cả ROA và ROE,

trong khi đòn bẩy tài chính có tác động cùng chiều với ROE. Ngoài ra, nghiên cứu này không tìm thấy mối liên hệ

giữa tổng số thành viên trong HĐQT, trình độ học vấn của thành phần ban lãnh đạo và quy mô công ty đối với hiệu

quả tài chính của doanh nghiệp.

pdf 6 trang phuongnguyen 240
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của tuổi đời, trình độ học vấn thành viên hội đồng quản trị đến hiệu quả tài chính của doanh nghiệp ngành bất động sản", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của tuổi đời, trình độ học vấn thành viên hội đồng quản trị đến hiệu quả tài chính của doanh nghiệp ngành bất động sản

Ảnh hưởng của tuổi đời, trình độ học vấn thành viên hội đồng quản trị đến hiệu quả tài chính của doanh nghiệp ngành bất động sản
11
Khoa học Xã hội và Nhân văn
62(4) 4.2020
Giới thiệu chung 
 Để một doanh nghiệp có thể vận hành tốt, việc có một 
HĐQT làm việc hiệu quả là vô cùng quan trọng. Với vai trò 
là cơ quan quản lý, nhân danh công ty để đưa ra các quyết 
định thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty, mọi quyết 
định của HĐQT đều có giá trị pháp lý và ảnh hưởng đến sự 
hoạt động, phát triển và lợi nhuận của doanh nghiệp. Cụ thể 
hơn, HĐQT đưa ra mọi quyết định liên quan đến chiến lược, 
kế hoạch phát triển, kinh doanh ngắn và dài hạn, các hình 
thức đầu tư, phát triển thị trường; các quyết định liên quan 
đến các hình thức huy động vốn như chào bán cổ phần, phát 
hành trái phiếu; các quyết định về bổ nhiệm tổng giám đốc, 
giám đốc hay nhân sự nội bộ công ty và còn có thể đưa ra các 
kiến nghị về tái cấu trúc, giải thể hay phá sản công ty. Với 
quyền hạn lớn đến vậy, việc HĐQT hoạt động hiệu quả sẽ 
đem lại lợi nhuận lớn, đảm bảo thu nhập cho nhân viên, đem 
lại giá trị cho xã hội, cho nền kinh tế, và quan trọng nhất là 
quyết định sự phát triển của doanh nghiệp. Dù có tầm quan 
trọng lớn đến vậy, nhưng trên thực tế, HĐQT của các doanh 
nghiệp Việt Nam vẫn đang hoạt động với hiệu quả thấp, 
thấp hơn rất nhiều so với các công ty trong khu vực ASEAN 
6 (Singapore, Malaysia, Philippines, Indonesia, Thái Lan và 
Việt Nam). 
Các thành viên HĐQT tại Việt Nam được đánh giá là 
thiếu nhiều kiến thức và kỹ năng để đóng góp vào chiến 
lược phát triển của công ty một cách tốt nhất. Bên cạnh đó, 
hệ thống phúc lợi cho HĐQT chưa được rõ ràng, ảnh hưởng 
nhiều đến quyết tâm cống hiến của các thành viên HĐQT. 
Cuối cùng, các chương trình đào tạo, phát triển cho công 
việc kế nhiệm vẫn chưa được xem trọng, vì vậy các thế hệ 
HĐQT tiếp theo của doanh nghiệp thường gặp rất nhiều khó 
khăn trong việc tiếp quản, điều hành doanh nghiệp và hiểu 
rõ quyền hạn, phân công công việc của từng thành viên. Tất 
cả những điều trên cho thấy sự khó khăn của đa số HĐQT 
các doanh nghiệp Việt Nam hiện tại trong việc hoạt động 
hiệu quả để đem lại lợi nhuận cao từ việc điều hành doanh 
nghiệp, cũng như thể hiện sự thiếu hụt trong các tiêu chí 
chọn lựa thành viên HĐQT để đảm bảo lợi nhuận doanh 
nghiệp.
 Nghiên cứu của Shukeri và các cộng sự (2012) [1] trên 
cơ sở dữ liệu của một số công ty được niêm yết tại Malaysia 
cho thấy, ảnh hưởng của từng đặc tính đến hiệu suất của 
doanh nghiệp là không nhất quán, có nghĩa là hiệu ứng có 
thể tích cực hoặc tiêu cực vì mỗi đặc tính đều có ưu và nhược 
điểm riêng. Ví dụ, quy mô công ty tối ưu vẫn chưa rõ ràng, 
quy mô doanh nghiệp lớn có nguồn ý tưởng và kiến thức tốt 
hơn nhưng có khả năng xung đột tiềm năng ở góc độ truyền 
thông cao hơn. Một số nghiên cứu đã chứng minh quy mô 
doanh nghiệp lớn ảnh hưởng tích cực đến hiệu suất công ty 
nhưng một số thì không. 
Ảnh hưởng của tuổi đời, trình độ học vấn 
thành viên hội đồng quản trị đến hiệu quả 
tài chính của doanh nghiệp ngành bất động sản
Phạm Tiến Mạnh*
Học viện Ngân hàng
Ngày nhận bài 12/9/2019; ngày chuyển phản biện 16/9/2019; ngày nhận phản biện 15/10/2019; ngày chấp nhận đăng 23/10/2019
Tóm tắt:
Nghiên cứu sử dụng số liệu của 27 công ty trong lĩnh vực bất động sản đang niêm yết trên thị trường chứng khoán 
Việt Nam (bao gồm cả HNX và HOSE), các biến được đưa vào nghiên cứu là các biến liên quan đến lợi nhuận, nhằm 
xem xét tác động của chúng đến hiệu quả tài chính của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy, thành viên hội 
đồng quản trị (HĐQT) là người nước ngoài có tác động ngược chiều đến tỷ số lợi nhuận ròng trên tài sản (ROA); 
độ tuổi của thành viên ban lãnh đạo có tác động cùng chiều với tỷ số lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE) của 
doanh nghiệp. Nghiên cứu cũng cho thấy, cổ tức chi trả của doanh nghiệp có tác động tích cực với cả ROA và ROE, 
trong khi đòn bẩy tài chính có tác động cùng chiều với ROE. Ngoài ra, nghiên cứu này không tìm thấy mối liên hệ 
giữa tổng số thành viên trong HĐQT, trình độ học vấn của thành phần ban lãnh đạo và quy mô công ty đối với hiệu 
quả tài chính của doanh nghiệp. 
Từ khóa: HĐQT, ROA, ROE, trình độ học vấn, tuổi ban lãnh đạo.
Chỉ số phân loại: 5.2
*Email: manhpham@hvnh.edu.vn
12
Khoa học Xã hội và Nhân văn
62(4) 4.2020
 Vì vậy, việc nghiên cứu rõ hơn ảnh hưởng của yếu tố 
quản trị đến lợi nhuận doanh nghiệp tại Việt Nam là thực sự 
cần thiết hiện nay. Trong nghiên cứu này, tác giả đặc biệt nhấn 
mạnh đến yếu tố tuổi đời, trình độ học vấn của thành viên 
HĐQT. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng xem xét tác động của 
tổng số thành viên HĐQT công ty, thành viên HĐQT là người 
nước ngoài, nhằm xem xét các yếu tố này tác động như thế 
nào đối với các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán 
Việt Nam. 
Cơ sở lý thuyết và giả thuyết nghiên cứu
Quy mô HĐQT
Horváth và Spirollari (2012) [2] đưa ra giả thiết rằng, 
số lượng thành viên trong HĐQT ảnh hưởng ngược chiều 
đến hiệu quả của công ty. Theo Fama và Jensen (1983) [3], 
doanh nghiệp có quy mô HĐQT lớn thường có hiệu suất 
kém hơn so với doanh nghiệp có HĐQT quy mô nhỏ và 
làm tăng tỷ lệ xuất hiện hiện tượng “free-riding” (trường 
hợp một cá nhân nào đó được hưởng lợi ích từ việc mà anh 
ta/cô ta không cần bỏ công sức vào). Nhóm tác giả [1] đã 
đưa ra giả định “Có mối quan hệ thuận chiều giữa quy mô 
HĐQT và lợi ích doanh nghiệp”. Giả định này dựa trên cơ sở 
nhiều thành viên trong ban quản trị sẽ đẩy mạnh sự kiểm soát 
và quản lý, giúp tăng hiệu quả hoạt động tài chính và phi tài 
chính của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu của nhóm tác 
giả đã chỉ ra được quy mô HĐQT tương quan tỷ lệ thuận với 
lợi ích doanh nghiệp. Theo [3], quy mô HĐQT lớn làm giảm 
hiệu suất sinh lời của doanh nghiệp do sẽ có trường hợp cá 
nhân không làm mà được hưởng lợi, vì thế sẽ gây tác động 
tiêu cực đến hiệu quả hoạt động của công ty. Do đó, giả 
thuyết đầu tiên trong nghiên cứu này đó là:
H
1
: Quy mô HĐQT ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả tài 
chính của doanh nghiệp. 
Sự đa dạng sắc tộc trong doanh nghiệp
Đa dạng sắc tộc đồng nghĩa với việc có sự đa dạng hóa 
kiến thức, ý tưởng và kinh nghiệm thông qua một loạt các 
nguồn thông tin từ các nền tảng, khía cạnh văn hóa, văn minh 
khác nhau giữa các thành viên HĐQT. Một tổ chức có mức 
độ đa dạng văn hóa trong quản lý sẽ có nhiều ý tưởng hơn, 
giúp việc đưa ra quyết định cuối cùng được chính xác và phù 
hợp hơn. Qua đó sẽ cải thiện hiệu suất quản lý thông qua sự 
đồng thuận chung giữa các nhóm. Vậy nên sự đa dạng sắc tộc 
lớn có thể cải thiện hiệu suất của công ty bằng cách chia sẻ 
và đưa ra quyết định cuối cùng. Theo Hambrick và các cộng 
sự (1996) [4], khi nghiên cứu về những lợi thế của việc có 
sự đa dạng sắc tộc trong HĐQT đã nhận thấy, một tổ chức có 
mức độ đa dạng văn hóa trong quản lý sẽ có nhiều ý tưởng 
và lựa chọn hơn, giúp việc đưa ra quyết định cuối cùng được 
chính xác và phù hợp hơn. Giả thuyết thứ hai trong nghiên 
cứu này đó là:
H
2
: Số lượng thành viên HĐQT là người nước ngoài có 
tác động tích cực đến hiệu quả tài chính của doanh nghiệp. 
Độ tuổi và thâm niên nghề nghiệp của thành viên 
HĐQT
Theo thời gian, với sự phát triển của kinh tế, khoa học 
và kỹ thuật, cách điều hành một doanh nghiệp cũng thay 
đổi, tiêu chuẩn lựa chọn HĐQT không chỉ còn là về mặt tri 
thức. Nghiên cứu của Yusoff và Wan (2010) [5] đã đưa ra 
3 nhóm đặc điểm của HĐQT quyết định lợi nhuận doanh 
nghiệp, bao gồm nhóm đặc điểm về nhân khẩu học, tính 
cách và năng lực của thành viên hội đồng, với một số đặc 
điểm chính được phân tích chi tiết như độ tuổi, giới tính, 
trình độ học vấn, kinh nghiệm làm việc của thành viên 
hội đồng. 
Hambrick và Mason (1984) [6], Margarethe và Bantel 
(1992) [7] chỉ ra rằng, ban quản trị lớn tuổi sẽ có xu hướng 
Effect of age and education level 
of board of directors 
on firms’ financial performance 
Tien Manh Pham*
Banking Academy
Received 12 September 2019; accepted 23 October 2019 
Abstract:
This study uses data of 27 real estate companies listed 
on Vietnam’s stock market (including HNX and HOSE), 
the variables included in this study which are variables 
related to profit, to consider their impact on the financial 
performance of the businesses. Research results show 
that foreign members of the board of directors (BOD) 
have a negative impact on the ratio of net return on 
assets (ROA); the age of the BOD members has the 
favourable effect on the firms’ net return on equity 
(ROE). Also, corporate dividends have a positive impact 
on both ROA and ROE, while financial leverage has the 
same direction as ROE. In addition, this study does not 
find any linkage among the number of BOD members, 
the education level of BOD member, and the firm size to 
the firms’ financial performance.
Keywords: board of directors, BOD age, education level, 
ROA, ROE.
Classification number: 5.2
13
Khoa học Xã hội và Nhân văn
62(4) 4.2020
tránh những quyết định rủi ro cao về sự an toàn tài chính, 
trong khi những nhà quản trị trẻ tuổi có xu hướng tham gia 
nhiều hơn vào những quyết định mang tính chiến lược. Tuy 
nhiên, cũng chính nhà quản trị lớn tuổi lại là những người 
giàu kinh nghiệm hơn trong lĩnh vực kinh doanh và trong 
công việc của họ, đảm bảo chắc chắn vị thế cạnh tranh và 
sự tăng trưởng đều đặn cho doanh nghiệp, và vì vậy doanh 
nghiệp nên lựa chọn các thành viên lớn tuổi cho các vị trí 
trong HĐQT. Nghiên cứu của Dagsson và Larsson (2011) 
[8] lại nghiêng về sự đa dạng nhóm tuổi trong HĐQT, khi 2 
tác giả kết luận rằng các tác động đến từ nhóm thành viên 
HĐQT trẻ tuổi thường đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp 
sau 2 năm, trong khi các thành viên lớn tuổi đảm bảo sự 
tăng trưởng đều đặn của lợi nhuận trong ngắn hạn. Nghiên 
cứu này cũng chỉ ra rằng, độ tuổi thành viên HĐQT sẽ có 
ảnh hưởng rõ rệt đến lợi nhuận của doanh nghiệp nhỏ, và 
tác động này giảm dần khi quy mô doanh nghiệp tăng lên 
vừa và lớn.
Thông thường, chúng ta sẽ cho rằng ban quản trị càng 
có thâm niên, kinh nghiệm và nhiều kiến thức trong ngành, 
doanh nghiệp càng hoạt động tốt và càng có cơ hội thu 
được lợi nhuận cao, điển hình như nghiên cứu của Ilhan và 
Kalaycioglu (2016) [9]. Việc HĐQT có nhiều kinh nghiệm 
cũng thúc đẩy việc trao đổi thông tin với các ban quản trị 
của các doanh nghiệp khác trong ngành hay với chính phủ, 
tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp nói riêng và ngành 
kinh doanh nói chung (Forbes và Milliken, 1999 [10]). Tuy 
nhiên, một nghiên cứu khác lại đưa ra góc nhìn khá độc 
đáo về mặt thâm niên trong ngành của thành viên HĐQT 
khi nghiên cứu này chỉ ra rằng, sự đa dạng trong thâm niên 
giữa các thành viên HĐQT mới đem lại hiệu quả hoạt động 
cao nhất cho doanh nghiệp (Wellalage và Locke, 2013 [11]). 
Hai tác giả này cho rằng, việc đa dạng trong thâm niên giúp 
doanh nghiệp hưởng lợi thế phát triển bền vững từ những 
thành viên với thâm niên cao, trong khi những thành viên 
thâm niên thấp có thể đưa ra những phương hướng kinh 
doanh đột phá, sáng tạo hơn, tạo ra môi trường làm việc đa 
chiều, tìm kiếm những thị trường mới tốt hơn, vì họ không 
bị giới hạn bởi những kiến thức và kinh nghiệm đã biết 
về ngành và doanh nghiệp. Tóm lại, các nghiên cứu trước 
đây về tác động của thâm niên nghề nghiệp của thành viên 
HĐQT đưa ra những kết luận theo nhiều chiều hướng khác 
nhau, không có sự thống nhất giữa các doanh nghiệp hay 
môi trường nghiên cứu. Dù vậy, đa số nghiên cứu có điểm 
chung rằng, để đảm bảo lợi nhuận cho doanh nghiệp, HĐQT 
vẫn cần một số lượng thành viên với thâm niên nghề nghiệp 
nhất định.
Ngoài ra, có quan điểm cho rằng, tuổi cách càng xa so 
với ngưỡng tuổi vàng sẽ có mối quan hệ ngược chiều với 
lợi nhuận. Dựa trên nghiên cứu của Yusoff và Wan (2010) 
[5] chỉ ra độ tuổi trung bình của các thành viên HĐQT là 58 
tuổi và đưa ra lời khuyên rằng doanh nghiệp nên có sự đa 
dạng trong độ tuổi của thành viên HĐQT, tốt nhất là nằm 
trong khoảng 30-70 tuổi, giả thuyết thứ ba trong nghiên cứu 
này là:
H
3
: Tuổi đời của thành phần HĐQT có tác động tích cực 
đến hiệu quả tài chính của doanh nghiệp
Trình độ học vấn
Nhiều nghiên cứu quốc tế trong vòng 40 năm trở lại đây 
đã cố gắng tìm ra những điểm chung của các HĐQT các 
doanh nghiệp hoạt động hiệu quả. Các nghiên cứu hầu như 
đều đồng ý rằng, ban lãnh đạo cao nhất có kiến thức chuyên 
ngành, kiến thức cụ thể về doanh nghiệp và cơ chế vận hành 
nó sẽ đảm bảo doanh nghiệp hoạt động hiệu quả tốt hơn, 
ví dụ như nghiên cứu của Hambrick và Mason (1984) [6], 
Conger và Ready (2004) [12] hay Kor và Sundaramurthy 
(2008) [13]. Ngoài ra, trình độ học vấn chính là một trong 
những thước đo quan trọng của kiến thức, đặc biệt là trình 
độ và bằng cấp trong các lĩnh vực như tài chính, kế toán, 
kinh tế, nghiên cứu và luật, bởi nhu cầu áp dụng những 
lĩnh vực này trong việc quản trị doanh nghiệp là rất lớn [5]. 
HĐQT với các thành viên có trình độ học vấn cao thường 
sẵn sàng chấp nhận những thay đổi trong cấu trúc hay chiến 
lược của doanh nghiệp, bởi họ có khả năng giảm tối đa rủi 
ro hệ thống trong quá trình thay đổi nhờ vào những góc nhìn 
chiến lược độc đáo, đầu óc giải quyết vấn đề nhanh nhạy 
và sự hiểu biết sâu trong hoạt động kinh doanh của doanh 
nghiệp (Jensen và Zajac, 2004 [14]). Dựa trên cơ sở bằng 
cấp càng cao thì đồng nghĩa với việc tiếp cận nhiều với các 
tri thức chuyên ngành, thành viên được đào tạo bài bản hơn, 
dẫn tới khả năng xử lý công việc, ra quyết định tốt hơn, giả 
thuyết thứ tư trong nghiên cứu này là:
H4: Trình độ học vấn của chủ tịch HĐQT ảnh hưởng tích 
cực đến hiệu quả tài chính của doanh nghiệp. 
Số liệu và phương pháp nghiên cứu
Số liệu nghiên cứu
Tính đến cuối năm 2018, có 771 công ty đang niêm yết 
trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong đó, sàn giao 
dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) có 384 công ty niêm yết 
và sàn giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh (HOSE) có 
387 công ty niêm yết. Nghiên cứu sử dụng thông tin của 27 
công ty bất động sản niêm yết, được lựa chọn dựa trên các 
tiêu chí: đầy đủ số liệu về báo cáo tài chính, đầy đủ số liệu 
về báo cáo thường niên, đầy đủ thông tin về chi trả cổ tức 
qua các năm. 
Đối với 27 công ty trong giai đoạn 2011-2018, tổng số 
mẫu trong 8 năm là 216 mẫu được sử dụng. Số liệu cần thu 
thập liên quan tới các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài 
chính của doanh nghiệp được tác giả thu thập từ báo cáo tài 
14
Khoa học Xã hội và Nhân văn
62(4) 4.2020
chính và báo cáo thường niên tại website của các công ty 
trong nghiên cứu này. 
Mô hình nghiên cứu
Sử dụng tiêu chí hiệu quả tài chính là ROA, ROE, tác 
giả đưa ra mô hình với 4 biến độc lập trong nghiên cứu này: 
trình độ học vấn, độ tuổi và thâm niên nghề nghiệp, quy mô 
HĐQT, số thành viên nước ngoài. Ngoài ra, nghiên cứu còn 
sử dụng các biến kiểm soát: đòn bẩy tài chính, cổ tức bằng 
tiền, quy mô doanh nghiệp (bảng 1).
Bảng 1. Các biến nghiên cứu.
Tên biến Viết tắt Cách đo lường
Biến phụ 
thuộc
Tỷ số lợi nhuận 
trên tổng tài sản
ROA
Lợi nhuận sau thuế/Tổng 
tài sản
Tỷ số lợi nhuận 
trên vốn chủ sở hữu
ROE
Lợi nhuận sau thuế/Vốn 
chủ sở hữu
Biến độc 
lập
Số lượng thành 
viên HĐQT
TS.TV
Số lượng thành viên 
HĐQT
Thành viên HĐQT 
nước ngoài
TV.NN
Số lượng thành viên 
HĐQT là người nước 
ngoài
Độ tuổi DT
Tuổi bình quân của các 
thành viên HĐQT
Trình độ học vấn HV
Trình độ học vấn của chủ 
tịch HĐQT = 1 nếu có 
bằng sau đại học trở lên; 
nếu tốt nghiệp đại học trở 
xuống, có giá trị 0
Biến kiểm 
soát
Đòn bẩy tài chính DB
Tổng nợ/Vốn đầu tư của 
chủ sở hữu
Cổ tức CT
Cổ tức tiền mặt được trả 
trong năm
Quy mô công ty QM Log (Tổng tài sản)
Để thực hiện việc kiểm định giả thiết nghiên cứu và đo 
lường sự ảnh hướng của mối quan hệ giữa các biến và hiệu 
quả tài chính của doanh nghiệp, nghiên cứu này sử dụng mô 
hình hồi quy.
Mô hình nghiên cứu 1:
ROA
i,t
 = α
0.1
 + β
1.1
TS.TV
i,t
 + β
2.1
TV.NN
i,t
 + β
3.1
DT
i,t
 + 
β
4.1
HV
i,t
 + β
5.1
DB
i,t
 + β
6.1
CT
i,t
 + β
7.1
QM
i,t
 + µ
i,t
Mô hình nghiên cứu 2:
ROE
i,t
 = α
0.2
 + β
1.2
TS.TV
i,t
 + β
2.2
TV.NN
i,t
 + β
3.2
DT
i,t
 + 
β
4.2
HV
i,t
 + β
5.2
DB
i,t
 + β
6.2
CT
i,t
 + β
7.2
QM
i,t
 + µ
i,t
Trong đó: i - doanh nghiệp i; t - năm t; ROA - lợi nhuận 
trên tổng tài sản; ROE - lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu; 
TS.TV - tổng số thành viên HĐQT trong công ty; TV.NN 
- tổng số thành viên HĐQT là người nước ngoài; DT - tuổi 
của thành viên HĐQT; HV - trình độ học vấn của thành viên 
HĐQT; DB - đòn bẩy tài chính; CT - cổ tức công ty chi trả; 
QM - quy mô doanh nghiệp; α - hệ số chặn; β - hệ số hồi quy 
riêng; µ - các sai số ngẫu nhiên.
Kết quả nghiên cứu
Phân tích tổng quan số liệu 
Dựa vào bảng thống kê, mô tả các biến nghiên cứu (bảng 
2) cho thấy, giá trị ROA của các công ty trong nghiên cứu 
này trung bình đạt 0,032 (tức 3,2%), trong khi ROE đạt 
0,186 (tức 18,6%); số lượng thành viên HĐQT đạt bình 
quân 6,046 người, trong khi số lượng thành viên HĐQT 
là người nước ngoài thấp, với số lượng cao nhất chỉ đạt 3 
người, giá trị trung bình đạt 0,236. Đối với độ tuổi của các 
thành viên HĐQT, trung bình là 47,5 tuổi, trong đó độ tuổi 
trẻ nhất là 37 tuổi, lớn nhất là 65,2 tuổi. Đối với trình độ học 
vấn của thành phần ban lãnh đạo, 25% có trình độ trên đại 
học (từ bậc thạc sĩ trở lên), còn lại có trình độ từ đại học trở 
xuống. 
Đối với các biến kiểm soát, bình quân các doanh nghiệp 
trong nghiên cứu này có tỷ lệ đòn bẩy tài chính là 2,7; có 
những doanh nghiệp có tỷ lệ đòn bẩy tài chính lên đến 10,22 
lần. Cổ tức các công ty trong lĩnh vực bất động sản niêm 
yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam đạt bình quân 
415,312 đồng/cổ phiếu; tuy nhiên có những công ty không 
trả cổ tức, trong khi có những công ty trả cổ tức ở mức rất 
cao, lên đến gần 60% (đạt 5.856,5 đồng/cổ phiếu). Về biến 
quy mô doanh nghiệp, đạt trung bình 12,398, với độ lệch 
chuẩn là 0,514. 
Bảng 2. Thống kê, mô tả các biến nghiên cứu.
ROA ROE TS.TV TV.NN DT HV DB CT QM
Trung bình 0,032 0,186 6,046 0,236 47,567 0,250 2,717 415,312 12,398
Độ lệch chuẩn 0,076 0,275 1,468 0,665 4,904 0,434 1,973 744,081 0,514
Kurtosis 
(Độ nhọn)
84,991 10,773 2,416 8,039 0,244 -0,654 1,674 15,980 3,782
Skewness 
(Độ lệch)
-7,178 2,469 1,263 2,957 0,408 1,163 1,273 3,372 0,406
Nhỏ nhất -0,853 -0,504 4 0 37 0 0,153 0 9,988
Lớn nhất 0,274 1,780 13 3 65,2 1 10,225 5.856,515 14,330
Tổng số biến 216 216 216 216 216 216 216 216 216
Nguồn: kết quả nghiên cứu 
Kiểm tra đa cộng tuyến
Bảng ma trận tương quan (bảng 3) cho thấy, số lượng 
thành viên HĐQT, số lượng thành viên HĐQT là người 
nước ngoài, độ tuổi của thành viên HĐQT, cổ tức và quy 
mô công ty có tác động ngược chiều với ROA, trong khi 
đòn bẩy tài chính, trình độ học vấn của thành viên HĐQT 
có mối tương quan cùng chiều với ROA. Trong khi đó, với 
tỷ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, chỉ có số lượng thành 
viên HĐQT là người nước ngoài, cổ tức và quy mô công ty 
có tác động ngược chiều với ROE, các biến còn lại có mối 
tương quan cùng chiều. Trong các biến nghiên cứu của mô 
hình, không có mối tương quan nào lớn hơn 0,8, vì thế ít có 
khả năng xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến trong các biến 
nghiên cứu.
15
Khoa học Xã hội và Nhân văn
62(4) 4.2020
Bảng 3. Bảng ma trận tương quan.
 ROA ROE TS.TV TV.NN DT HV DB CT QM
ROA 1 
ROE 0,613 1 
TS.TV -0,182 0,020 1 
TV.NN -0,303 -0,118 0,523 1 
DT -0,044 0,038 0,032 -0,122 1 
HV 0,051 0,072 0,091 -0,173 -0,029 1 
DB 0,105 0,472 0,020 0,021 -0,145 0,112 1 
CT -0,025 -0,062 0,047 0,218 -0,149 -0,105 0,267 1 
QM -0,024 -0,061 0,062 0,242 -0,153 -0,112 0,269 0,199 1
Nguồn: kết quả nghiên cứu
Mô hình hồi quy
Nghiên cứu này sử dụng Stata 14 để chạy mô hình hồi 
quy OLS, với các biến phụ thuộc là ROA, ROE; biến độc 
lập là số lượng thành viên HĐQT, số lượng thành viên 
HĐQT là người nước ngoài, độ tuổi của thành viên HĐQT, 
trình độ học vấn của thành viên HĐQT (bảng 4). Biến kiểm 
soát bao gồm đòn bẩy tài chính, cổ tức bằng tiền mặt trả cho 
các cổ đông và quy mô doanh nghiệp. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy, đối với biến độc lập là 
ROA, có trị thống kê F (Sig-F) đạt 0,000<0,005, vậy mô 
hình có ý nghĩa thống kê; với hệ số R bình phương điều 
chỉnh (R-Square) đạt 0,144, có nghĩa các biến trong mô 
hình giải thích được 14,4% thay đổi của ROA. Với các biến 
nghiên cứu tác động đến chỉ số ROA, có biến số lượng thành 
viên HĐQT là người nước ngoài và cổ tức có giá trị p-value 
<0,05, có ý nghĩa thống kê. Theo kết quả mô hình hồi quy, 
biến nghiên cứu số lượng thành viên HĐQT là người nước 
ngoài có tác động ngược chiều đến hệ số lợi nhuận trên tổng 
tài sản của các doanh nghiệp, điều này trái với giả thuyết 
H
2
. Trong khi đó, mặc dù biến cổ tức có ý nghĩa thống kê 
tác động đến ROA của doanh nghiệp, nhưng sự tác động rất 
nhỏ, chỉ 0,002. Các biến còn lại, như tổng số lượng thành 
viên HĐQT, độ tuổi, trình độ học vấn, đòn bẩy tài chính, 
quy mô doanh nghiệp không có ý nghĩa thống kê, do đó 
không có tác động đến ROA.
Bảng 4. Kết quả chạy mô hình hồi quy với biến phụ thuộc ROA.
 Hệ số hồi quy Sai số chuẩn Thống kê t Trị số p
Hệ số chặn -0,002 0,144 -0,013 0,989
TS.TV -0,001 0,004 -0,189 0,851
TV.NN -0,133 0,009 -3,534 0,001
DT -0,001 0,001 -1,109 0,269
HV -0,004 0,012 -0,347 0,729
DB 0,001 0,003 0,540 0,590
CT 0,002 0,000 2,762 0,006
QM 0,007 0,011 0,691 0,491
Sig-F 0,000
R-Square 0,144
Số biến quan sát 216
Nguồn: kết quả nghiên cứu
Đối với hệ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, kết quả 
mô hình hồi quy cho thấy, mô hình nghiên cứu có ý nghĩa 
thống kê, với trị thống kê F (Sig-F) <0,05, các biến trong 
mô hình giải thích được 44,9% sự thay đổi của lợi nhuận 
trên vốn chủ sở hữu của các công ty bất động sản niêm yết 
trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Cụ thể, độ tuổi của 
ban lãnh đạo có tác động đáng kể đến ROE, với mối quan 
hệ cùng chiều tác động, như vậy xác nhận giả thuyết H
3
, khi 
cho rằng nếu lãnh đạo doanh nghiệp ở ngưỡng tuổi “vàng” 
để quản trị doanh nghiệp, tức là những người từ 30-70 tuổi, 
rất phù hợp để có những quyết sách đúng đắn khi điều hành 
doanh nghiệp, trong khi độ tuổi của thành viên HĐQT trong 
nghiên cứu này là 47,5 tuổi; tương tự như vậy đòn bẩy tài 
chính và cổ tức cũng có tác động cùng chiều với ROE, nhưng 
mức độ tác động khá nhỏ, với giá trị là 0,062 và 0,001. Đối 
với các biến khác, như tổng số lượng thành viên HĐQT, số 
lượng thành viên HĐQT là người nước ngoài, trình độ học 
vấn, quy mô doanh nghiệp, đều có giá trị p-value >0,05 nên 
không có ý nghĩa thống kê (bảng 5).
Bảng 5. Kết quả chạy mô hình hồi quy với biến phụ thuộc ROE.
 Hệ số hồi quy Sai số chuẩn Thống kê t Trị số p
Hệ số chặn 0,532 0,452 1,177 0,241
TS.TV 0,019 0,013 1,496 0,136
TV.NN -0,043 0,029 -1,475 0,142
DT 0,103 0,003 0,945 0,006
HV -0,035 0,037 -0,922 0,357
DB 0,062 0,009 7,126 0,000
CT 0,001 0,000 4,710 0,000
QM -0,064 0,033 -1,952 0,052
Sig-F 0,000
R-Square 0,449
Số biến quan sát 216
Nguồn: kết quả nghiên cứu
Kết luận và khuyến nghị
Kết luận
Tổng hợp kết quả nghiên cứu cho thấy, đối với các công 
ty trong lĩnh vực bất động sản đang niêm yết trên thị trường 
chứng khoán Việt Nam, bao gồm niêm yết trên cả HNX và 
HOSE, có sự tồn tại tác động của thành phần ban lãnh đạo 
đến hiệu quả tài chính của doanh nghiệp. Cụ thể: 
Thứ nhất, số lượng thành viên HĐQT là người nước 
ngoài có tác động ngược chiều đến hệ số lợi nhuận trên tổng 
tài sản của doanh nghiệp; điều này có nghĩa, số lượng thành 
viên HĐQT là người nước ngoài càng nhiều thì càng làm 
cho ROA của doanh nghiệp giảm đi và ngược lại.
Thứ hai, độ tuổi của thành phần HĐQT có tác động cùng 
chiều với hệ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu; tức là độ 
tuổi thành phần ban lãnh đạo càng cao, càng nâng cao hiệu 
16
Khoa học Xã hội và Nhân văn
62(4) 4.2020
quả lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp đó và 
ngược lại.
Thứ ba, đối với biến kiểm soát, cổ tức doanh nghiệp chi 
trả đồng thời có tác động cùng chiều với cả ROA và ROE 
của doanh nghiệp. Như vậy điều này cho thấy, khi doanh 
nghiệp hoạt động hiệu quả, tính cả trên tổng tài sản và vốn 
chủ sở hữu, sẽ làm cho tăng số tiền chi trả cổ tức tới các cổ 
đông. Bên cạnh đó, đòn bẩy tài chính có tác động đến ROE, 
nhưng mức độ tác động khá nhỏ.
Khuyến nghị
Dựa trên kết quả phân tích về các yếu tố liên quan, 
nghiên cứu đưa ra các khuyến nghị sau:
Một là, đối với thành viên HĐQT là người nước ngoài: 
75% các doanh nghiệp có thành viên HĐQT là người nước 
ngoài có tổng tài sản tăng qua các năm. Nhận thấy việc 
số thành viên HĐQT là người nước ngoài chiếm tỷ trọng 
không quá cao trong ban quản trị (trung bình 25 thành viên 
HĐQT mới có 1 thành viên là người nước ngoài), các thành 
viên khác và chủ tịch HĐQT có thể xem xét hướng phát 
triển để đưa ra các quyết định phù hợp. Nếu doanh nghiệp 
dự định đầu tư vào tài sản dài hạn thì việc thành viên nước 
ngoài không quá ảnh hưởng đến lợi nhuận. Ngược lại, nếu 
doanh nghiệp định đầu tư trong ngắn hạn, chủ tịch và một 
số thành viên khác có thể sử dụng quyền phủ quyết để bác 
bỏ ý kiến của thành viên nước ngoài.
Hai là, với độ tuổi của thành viên HĐQT, cần cân nhắc 
các cá nhân có đủ tài năng chuyên môn và khả năng lãnh 
đạo. Tuy nhiên vẫn còn một vấn đề nữa cần cân nhắc, đó là 
xem xét các thành viên HĐQT có tuổi đời chín chắn, nhằm 
tận dụng tối đa kinh nghiệm lãnh đạo dựa trên tuổi đời của 
họ, không nên bổ nhiệm các cá nhân có tuổi quá trẻ vào 
trong thành phần HĐQT của doanh nghiệp. 
Ba là, đối với vấn đề chi trả cổ tức trong doanh nghiệp, 
mặc dù tỷ lệ chi trả cổ tức cao có thể ảnh hưởng xấu đến lợi 
nhuận tương lai của doanh nghiệp nhưng việc chi trả cổ tức 
ở mức thấp sẽ làm nhà đầu tư đặt câu hỏi về khả năng hoạt 
động của doanh nghiệp. Nhóm nghiên cứu kiến nghị các 
doanh nghiệp có chính sách cổ tức kết hợp giữa trả cổ tức 
bằng cổ phiếu với trả cổ tức bằng tiền hoặc chỉ trả bằng cổ 
phiếu để làm giảm bớt ảnh hưởng của nó. Ngoài ra, doanh 
nghiệp cũng cân nhắc sử dụng đòn bẩy tài chính ở mức hợp 
lý, bởi theo kết quả nghiên cứu, đòn bẩy tài chính có tác 
động cùng chiều với ROE, dó đó nếu duy trì mức độ vay nợ 
ở mức hợp lý, đồng thời sử dụng hiệu quả vốn vay, sẽ có tác 
động tích cực đến hiệu quả lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu 
của doanh nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] S.N. Shukeri, O.W. Shin, M.S. Shaari (2012), “Does board 
of director’s characteristics affect firm performance? Evidence 
from Malaysian Public Listed Companies”, International Business 
Research, Doi.org/10.5539/ibr.v5n9p120. 
[2] R. Horváth, P. Spirollari (2012), “Do the board of directors’ 
characteristics influence firm’s performance? the U.S. evidence”, 
Prague Economic Papers, Doi.org/10.18267/j.pep.435.
[3] E.F. Fama, M.C. Jensen (1983), “Separation of ownership and 
control separation of ownership and control”, Journal of Law and 
Economics, Doi.org/10.1086/467037.
[4] D.C. Hambrick, T.S. Cho, M.J. Chen (1996), “The influence 
of top management team heterogeneity on firms’ competitive moves”, 
Administrative Science Quarterly, Doi.org/10.2307/2393871.
[5] W. Yusoff, F. Wan (2010), Characteristics of Boards of 
Directors and Board Effectiveness, A Study of Malaysian Public Listed 
Companies, A thesis submitted in total fulfilment, Victoria University.
[6] D.C. Hambrick, P.A. Mason (1984), “Echelons: of reflection 
the its organization as top a”, Management, Doi.org/10.2307/258434.
[7] W. Margarethe, K.A. Bantel (1992), “Top management 
team demography and corporate strategic change”, The Academy of 
Management Journal, 35(1), pp.91-121.
[8] S. Dagsson, E. Larsson (2011), How age diversity on the board 
of directors affects firm performance, Corporate Governance.
[9] T. Ilhan Nas, O. Kalaycioglu (2016), “The effects of the board 
composition, board size and CEO duality on export performance: 
Evidence from Turkey”, Management Research Review, Doi.
org/10.1108/MRR-01-2015-0014.
[10] D.P. Forbes, F.J. Milliken (1999), “Cognition and corporate 
governance: understanding boards of directors as strategic decision-
making groups”, The Academy of Management Review, 24(3), 
pp.489-505.
[11] N.H. Wellalage, S. Locke (2013), “Corporate governance, 
board diversity and firm financial performance: New evidence from 
Sri Lanka”, International Journal of Business Governance and Ethics, 
Doi.org/10.1504/IJBGE.2013.054416.
[12] J.A. Conger, D.A. Ready (2004), “Rethinking leadership 
competencies”, Leader to Leader, Doi.org/10.102/ltk.75.
[13] Y.Y. Kor, C. Sundaramurthy (2008), “Experience-Based 
Human capital and social capital of outside derector”, SSRN Electronic 
Journal, Doi.org/10.2139/ssrn.1090251.
[14] M. Jensen, E.J. Zajac (2004), “Corporate elites and corporate 
strategy: How demographic preferences and structural position 
shape the scope of the firm”, Strategic Management Journal, Doi.
org/10.1002/smj.393.

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_tuoi_doi_trinh_do_hoc_van_thanh_vien_hoi_dong.pdf