Ảnh hưởng của mức thu nhập, mức tiết kiệm, chi phí giao dịch và khoảng cách ngân hàng đến tài chính toàn diện

Ngân hàng Thế giới tuyên bố mục tiêu đến năm 2020 mỗi người trưởng thành phải sở hữu một tài khoản

để giảm đói nghèo và bất bình đẳng, đây được xem như một mốc quan trọng hướng tới tài chính toàn

diện đầy đủ và là nền tảng của quá trình tăng trưởng kinh tế. Theo dữ liệu Global Findex, tỷ lệ người

trưởng thành sở hữu tài khoản tại các tổ chức tài chính chính thức năm 2017 là 69%, đạt khoảng 3,8 tỷ

người trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, tỷ lệ này tương đối thấp (khoảng dưới 50%). Dựa trên các góc độ

tiếp cận khác nhau khi nghiên cứu, những rào cản đối với khả năng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài

chính/tài chính toàn diện cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu này tập

trung đi sâu vào nghiên cứu và xác định các yếu tố như mức thu nhập, mức tiết kiệm, chi phí giao dịch

và khoảng cách của ngân hàng ảnh hưởng đến tài chính toàn diện. Từ đó cho thấy, mức thu nhập cao

hơn, khuyến khích tiết kiệm, giảm chi phí giao dịch và giảm khoảng cách giữa các ngân hàng với khách

hàng sẽ làm gia tăng sử dụng các dịch vụ tài chính.

pdf 5 trang phuongnguyen 700
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của mức thu nhập, mức tiết kiệm, chi phí giao dịch và khoảng cách ngân hàng đến tài chính toàn diện", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của mức thu nhập, mức tiết kiệm, chi phí giao dịch và khoảng cách ngân hàng đến tài chính toàn diện

Ảnh hưởng của mức thu nhập, mức tiết kiệm, chi phí giao dịch và khoảng cách ngân hàng đến tài chính toàn diện
28 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
Giới thiệu
Trong những năm gần đây, phát triển một hệ 
thống tài chính toàn diện (Financial Inclusion) 
được cho là yếu tố rất quan trọng và ngày càng 
được quan tâm ở tất cả các quốc gia trên thế 
giới, đặc biệt là các quốc gia có nền kinh tế 
đang phát triển. Nhiều chính phủ của các quốc 
gia đã áp dụng các chính sách nhằm mở rộng, 
gia tăng sử dụng các dịch vụ tài chính hay tài 
chính toàn diện và đã đạt được những kết quả 
khá quan trọng. Ngân hàng Thế giới tuyên bố 
mục tiêu đến năm 2020 mỗi người trưởng thành 
phải sở hữu một tài khoản và xem đó như một 
mốc quan trọng hướng tới tài chính toàn diện 
đầy đủ (WorldBank, 2013), đây có thể được coi 
là bằng chứng cho thấy tài chính toàn diện đã 
được chấp nhận như nền tảng của quá trình tăng 
trưởng kinh tế.
Tài chính toàn diện được hiểu là các cá nhân 
ẢNH HƯỞNG CỦA MỨC THU NHẬP, MỨC TIẾT KIỆM, 
CHI PHÍ GIAO DỊCH VÀ KHOẢNG CÁCH NGÂN HÀNG 
ĐẾN TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN
TS. Nguyễn Thu Hiền*
Ngày nhận bài: 2/5/2019
Ngày chuyển phản biện: 10/5/2019
Ngày nhận phản biện: 15/5/2019
Ngày chấp nhận đăng: 20/5/2019
Ngân hàng Thế giới tuyên bố mục tiêu đến năm 2020 mỗi người trưởng thành phải sở hữu một tài khoản 
để giảm đói nghèo và bất bình đẳng, đây được xem như một mốc quan trọng hướng tới tài chính toàn 
diện đầy đủ và là nền tảng của quá trình tăng trưởng kinh tế. Theo dữ liệu Global Findex, tỷ lệ người 
trưởng thành sở hữu tài khoản tại các tổ chức tài chính chính thức năm 2017 là 69%, đạt khoảng 3,8 tỷ 
người trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, tỷ lệ này tương đối thấp (khoảng dưới 50%). Dựa trên các góc độ 
tiếp cận khác nhau khi nghiên cứu, những rào cản đối với khả năng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài 
chính/tài chính toàn diện cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu này tập 
trung đi sâu vào nghiên cứu và xác định các yếu tố như mức thu nhập, mức tiết kiệm, chi phí giao dịch 
và khoảng cách của ngân hàng ảnh hưởng đến tài chính toàn diện. Từ đó cho thấy, mức thu nhập cao 
hơn, khuyến khích tiết kiệm, giảm chi phí giao dịch và giảm khoảng cách giữa các ngân hàng với khách 
hàng sẽ làm gia tăng sử dụng các dịch vụ tài chính.
• Từ khóa: dịch vụ tài chính, tài chính, tài chính toàn diện, tiết kiệm.
The World Bank publicizes that, up to 2020, every 
adult should own a bank account to reduce the 
poverty and inequality. This target is deemed as 
a significant milestone towards a full financial 
inclusion and the foundation for economic growth. 
According to the data from Global Findex, the 
proportion of adults with accounts at official 
financial institutions in 2017 is 69%, reaching 
3.8 billion people over the world. In Vietnam, 
this proportion is relatively low (below 50%). 
On the basis of various approaches in study, 
obstacles to the access and use of financial 
services/financial inclusion depend on different 
factors. Nonetheless, this research intensively 
focuses on researching and determining factors 
such as income level, saving level, transaction 
cost and distance of the bank affecting financial 
inclusion. Accordingly, it can be seen that a higher 
income level, encouraging the savings, lowering 
transaction cost and reducing the distance 
between the banks and their users shall increase 
the use of financial services.
• Keywords: financial services, finance, financial 
inclusion, saving.
* Học viện Tài chính 
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI Soá 08 (193) - 2019
29Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
và doanh nghiệp có quyền tiếp cận và sử dụng 
vào các sản phẩm và dịch vụ tài chính hữu ích 
và phù hợp theo khả năng tài chính và khả năng 
đáp ứng nhu cầu của họ (giao dịch, thanh toán, 
tiết kiệm, tín dụng và bảo hiểm) theo cách thức 
có trách nhiệm và bền vững (WorldBank, 2018). 
Tuy nhiên, hiện chưa có một định nghĩa nào 
được chấp nhận rộng rãi về tài chính toàn diện, 
mỗi nghiên cứu đưa ra một định nghĩa khác nhau 
tuỳ thuộc vào từng góc độ tiếp cận mà nó được 
sử dụng. Chính vì vậy, các nghiên cứu cũng chỉ 
ra các nhân tố khác nhau như: quy mô dân số, tỷ 
lệ giới tính, thâm nhập chi nhánh, tỷ lệ biết chữ, 
học thức, độ tuổi, khu vực, việc làm, mức thu 
nhập, mức tiết kiệm, chi phí giao dịch và khoảng 
cách của ngân hàng,...ảnh hưởng đến việc gia 
tăng sử dụng các dịch vụ tài chính hay tài chính 
toàn diện.
2. Tổng quan về tài chính toàn diện
Tài chính toàn diện đã trở thành một hiện 
tượng kinh tế - xã hội mới và nhận được rất 
nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu cũng 
như các nhà hoạch định chính sách, do tài chính 
toàn diện là quá trình một số nhóm xã hội và 
cá nhân nhất định được tiếp cận với hệ thống 
tài chính chính thức (Leyshon & Thrift, 1995), 
và cung cấp các dịch vụ tài chính một cách hợp 
lý, thuận tiện, kịp thời tới mọi thành viên trong 
xã hội, đặc biệt là người nghèo và người dễ bị 
tổn thương (Rangarjan Committee, 2008; Ajide, 
2015) nhằm loại bỏ rào cản trong việc sử dụng 
các dịch vụ tài chính, giảm đói nghèo và bất 
bình đẳng. Theo nghĩa rộng hơn, tài chính toàn 
diện là quá trình đưa các thành viên yếu hơn và 
dễ bị tổn thương trong xã hội vào hệ thống tài 
chính có tổ chức, đảm bảo rằng họ tiếp cận tín 
dụng kịp thời và đầy đủ các sản phẩm tài chính 
khác với giá phải chăng. Tài chính toàn diện 
mô tả một tình huống trong đó phần lớn dân số 
được sử dụng các dịch vụ tài chính (Olaniyi & 
Adeoye, 2016). Mặc dù tài chính toàn diện trở 
nên nổi bật trong các tài liệu tài chính, tuy nhiên 
không có định nghĩa nào được chấp nhận rộng 
rãi (Tita & Aziakpono, 2017), mà bản thân nó 
luôn có những điều chỉnh, cụ thể hóa nhất định 
và nó được sử dụng tùy vào từng góc độ tiếp 
cận khác nhau, mỗi nghiên cứu đưa ra một định 
nghĩa khác nhau về tài chính toàn diện, nhưng 
tất cả đều thừa nhận rằng “tài chính toàn diện 
là một nỗ lực nhằm loại bỏ rào cản trong việc 
sử dụng các dịch vụ tài chính” hay nói cách 
khác “tài chính toàn diện là việc mọi người dân 
và doanh nghiệp được tiếp cận và sử dụng các 
sản phẩm và dịch vụ tài chính một cách thuận 
tiện, phù hợp nhu cầu với chi phí hợp lý do các 
tổ chức tài chính cung cấp một cách có trách 
nhiệm và bền vững”. Một khía cạnh khác của 
tài chính toàn diện là loại trừ tài chính, đây là 
những rào cản đối với khả năng tiếp cận và sử 
dụng các dịch vụ tài chính, nhằm nói tới những 
đối tượng gặp khó khăn khi tiếp cận các dịch vụ 
tài chính và hệ thống tài chính. Tình trạng loại 
trừ tài chính có thể là “tự nguyện” hoặc “không 
tự nguyện”, bởi do những trở ngại khách quan 
khi tiếp cận hệ thống tài chính hoặc do chính 
sự lựa chọn của cá nhân với nhiều nguyên nhân 
khác nhau.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến tài chính 
toàn diện
Dựa vào từng góc độ tiếp cận khác nhau 
khi nghiên cứu, mỗi nghiên cứu chỉ ra được 
các nhân tố khác nhau ảnh hưởng đến tài chính 
toàn diện. Kabakova & Plaksenkov (2018) cho 
rằng các lĩnh vực xã hội, công nghệ, kinh tế và 
chính trị thực sự là những yếu tố chính có thể 
có ảnh hưởng đến tài chính toàn diện. Beck & 
cộng sự (2007) cho rằng quy mô dân số, tỷ lệ 
giới tính, thâm nhập chi nhánh, tỷ lệ biết chữ 
và tỷ lệ thâm nhập tín dụng ảnh hưởng đến tài 
chính toàn diện. Allen & cộng sự (2016) tìm ra 
tỷ lệ những người giàu, có học thức, lớn tuổi, 
sống ở khu vực nông thôn, có việc làm, đã kết 
hôn hoặc đã ly hôn có tài khoản và tiết kiệm tại 
một tổ chức tài chính chính thức cao hơn nhóm 
còn lại. Tương tự, Fungáčová & Weill (2014) 
nhận thấy người nghèo, ít học vấn và trẻ hơn 
thường ít tiếp cận các dịch vụ tài chính. Nandru 
& cộng sự (2015) cho thấy sự dễ dàng trong việc 
tiếp cận các sản phẩm và mục đích mở tài khoản 
ngân hàng có ảnh hưởng đáng kể đến tần suất sử 
dụng dịch vụ ngân hàng. Ngoài ra, Mohamed & 
cộng sự (2017) đã xác định mức thu nhập, mức 
tiết kiệm, chi phí giao dịch và khoảng cách của 
ngân hàng ảnh hưởng đến tài chính toàn diện. 
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅISoá 08 (193) - 2019
30 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
Tuy nhiên, nghiên cứu này tập trung đi sâu vào 
nghiên cứu ảnh hưởng của mức thu nhập, mức 
tiết kiệm, chi phí giao dịch và khoảng cách của 
ngân hàng đến tài chính toàn diện và được mô tả 
thông qua sơ đồ sau:
3.1. Mức thu nhập (Income Level)
Trong bài luận về tiền, Keynes (1930) đã lập 
luận về tầm quan trọng của ngành ngân hàng 
trong tăng trưởng kinh tế và cho rằng việc tăng 
cường tài chính hoặc tài chính toàn diện xảy ra 
do sự mở rộng chi tiêu của chính phủ. Việc tăng 
chi tiêu của chính phủ sẽ làm tăng cơ hội việc 
làm, tăng thu nhập của các hộ gia đình và sẽ dẫn 
đến nhu cầu về dịch vụ tài chính.
Thu nhập có thể được định nghĩa là số tiền 
nhận được khi trao đổi lao động hoặc bán hàng 
hóa hoặc dịch vụ (Abreu & Greenstein, 2011). 
Mức thu nhập được coi là một trong những yếu 
tố quan trọng cho sự phát triển của ngành tài 
chính và tăng nhu cầu về dịch vụ tài chính ở cả 
các nước đã và đang phát triển, khối lượng và 
độ phức tạp của các dịch vụ tài chính ở các nền 
kinh tế có thu nhập cao đòi hỏi cao hơn so với 
các nền kinh tế có thu nhập thấp (Allen, 2013). 
Hơn nữa, bị loại trừ về tài chính có liên quan 
đến mức thu nhập: 20% người trưởng thành giàu 
nhất ở các nước đang phát triển có khả năng sở 
hữu tài khoản chính thức cao hơn 20% so với 
người nghèo nhất (WorldBank, 2016). Kohli 
(2013) đã tìm thấy các yếu tố kinh tế xã hội, 
mức thu nhập giữa các cá nhân ảnh hưởng đến 
mức độ tài chính toàn diện ở Ấn Độ. Ngoài ra, 
theo lý thuyết kinh tế, người ta thường cho rằng 
thu nhập cao liên quan chặt chẽ với nhu cầu 
dịch vụ tài chính cao hơn (Ando & Modigliani, 
1963). Vì vậy, mức thu nhập là một yếu tố quyết 
định đáng kể đến các dịch vụ tài chính của ngân 
hàng, mức thu nhập càng cao, khả năng tiếp cận 
các dịch vụ tài chính ngày càng tốt hơn hay còn 
gọi là tài chính toàn diện (Inganga & cộng sự, 
2014).
 3.2. Mức tiết kiệm (Saving Level)
Tiết kiệm có nghĩa là phần dôi ra của thu 
nhập so với các khoản chi cho tiêu dùng 
(Keynes,1936). Theo Ando & Modigliani 
(1963), một trong những động lực quan trọng 
nhất để đặt tiền sang một bên là nhu cầu cung 
cấp cho hưu trí. Những người trẻ tuổi sẽ tiết 
kiệm để có tiền chi tiêu khi về già, lúc họ không 
thể hoặc không muốn làm việc. Do đó, mọi 
người sẽ làm việc và tích lũy tiền từ thu nhập 
của mình để tiết kiệm nhằm trang trải các chi phí 
sau này khi nghỉ hưu. Tuy nhiên, khi mức tiết 
kiệm cao, người dân sẽ xem xét tiết kiệm một 
phần thu nhập của mình trong tổ chức tài chính, 
điều này dẫn đến hệ thống tài chính toàn diện 
hơn. Mặt khác, mọi người không chỉ dành cho 
chi phí hưu trí mà còn cho con cái họ có cuộc 
sống tốt hơn trong tương lai. Vì thế, tiết kiệm 
đang được coi là cửa ngõ của tài chính toàn diện 
giúp người nghèo, đặc biệt là giúp phụ nữ kiếm 
được nhiều tiền hơn và giảm bất bình đẳng thu 
nhập (Women’sWorldBanking, 2013). Theo 
Demirguc-Kunt & Klapper (2012), để trang trải 
các chi phí trong tương lai như giáo dục, cưới 
hỏi, mua hàng/một giao dịch lớn - hoặc để cung 
cấp cho các trường hợp khẩn cấp có thể xảy ra 
là một xu hướng phổ biến: khoảng 36% người 
trưởng thành toàn cầu báo cáo đã tiết kiệm hoặc 
dành tiền trong 12 tháng qua bằng cách sử dụng 
tài khoản tại một tổ chức tài chính chính thức. 
Mức tiết kiệm phụ thuộc vào các yếu tố khác 
nhau như thu nhập, lãi suất, yếu tố tài chính, yếu 
tố nhân khẩu học cũng như các yếu tố tâm lý, 
văn hóa và xã hội. Trong đó, thu nhập và lãi suất 
được coi là một yếu tố quan trọng quyết định 
và ảnh hưởng đến mức tiết kiệm. Trong nhiều 
nghiên cứu ở một số quốc gia đang phát triển thì 
tỷ lệ tiết kiệm có xu hướng tăng theo thu nhập, 
trong khi ở những quốc gia phát triển thì không 
có mối quan hệ đáng kể giữa thu nhập và tiết 
kiệm. Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu cũng chỉ 
(2018) cho rằng các lĩnh vực xã hội, công nghệ, kinh tế và chính trị thực sự là những yếu 
tố chính có thể ảnh hưởng đến tài chính toàn diện. Beck & cộng sự (2007) cho rằng quy 
mô dân số, tỷ lệ giới tính, thâm nhập chi nhánh, tỷ lệ biết chữ và tỷ lệ thâm nhập tín dụng 
ảnh hưởng đến tài chính toàn diện. Allen & cộng sự (2016) đã tìm ra tỷ lệ những người 
giàu, có học thức, lớn tuổi, sống ở khu vực nông thôn, có việc làm, đã kết hôn hoặc đã ly 
thân có tài khoản và có tiết kiệm tại một tổ chức tài chính chính thức cao hơn nhóm còn 
lại. Tương tự, Fungáčová & Weill (2014) nhận thấy người nghèo, ít học vấn và trẻ hơn 
thường ít tiếp cận các dịch vụ tài chính. Bên cạnh đó, Allen & cộng sự (2012) chỉ ra rằng 
mức độ tài chính toàn diện có tương quan nghịch với các yếu tố thu nhập thấp và sống ở 
nông thôn, trong khi có mối quan hệ tích cực với các yếu tố như giảm chi phí sử dụng 
dịch vụ ngân hàng, sự gần gũi của các chi nhánh, và giảm giấy tờ. Ngoài ra, Mohamed & 
cộng sự (2017) đã chỉ ra rằng mức thu nhập, mức tiết kiệm, chi phí giao dịch và khoảng 
cách của ngân hàng ảnh hưởng đến tài chính toàn diện. 
Tuy có nhiều nhân tố khác nhau ảnh hưởng đến tài chính toàn diện, nhưng với mục 
tiêu đi sâu vào nghiên cứu cụ thể một số nhân tố ảnh hưởng đến tài chính toàn diện, 
nghiên cứu này tập trung phân tích mức độ ảnh hưởng của thu nhập, tiết kiệm, chi phí 
giao dịch, khoảng cách của ngân hàng đến tài chính toàn diện, và được mô tả thông qua 
sơ đồ sau: 
Sơ đồ. Các nhân tố ảnh hưởng đến tài chính toàn diện 
3.1. Mức thu nhập (Income Level) 
Tài chính 
toàn diện 
Mức 
thu nhập 
Mức 
tiết kiệm 
Chi phí 
giao dịch 
Khoảng cách 
của ngân hàng 
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI Soá 08 (193) - 2019
31Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
ra tác động tích cực của lãi suất đối với tiết kiệm 
(Frączek, 2011). 
3.3. Chi phí giao dịch (Transaction Cost) 
Chi phí giao dịch là chi phí phát sinh khi sử 
dụng hệ thống thị trường để mua bán các đầu 
vào nhân tố và sản phẩm cuối cùng (Nguyễn Văn 
Ngọc, 2006). Chi phí giao dịch có thể được hiểu 
là chi phí chuyển tài nguyên giữa các thị trường 
hoặc giữa những người tham gia trong cùng một 
thị trường. Chi phí giao dịch có ảnh hưởng đến 
cả môi trường bên trong và bên ngoài của công 
ty như quyết định của người tiêu dùng để mua 
hàng hóa hoặc dịch vụ đó. Trong lĩnh vực tài 
chính, chi phí giao dịch đề cập đến các nguồn 
lực cần thiết để chuyển (cho vay) một đơn vị 
tiền từ người tiết kiệm sang người vay và thu 
hồi đơn vị tiền tệ đó vào một ngày sau đó cộng 
với một khoản lãi suất đã thỏa thuận (Meyer & 
Cuevas, 1990). Tại các ngân hàng, chi phí giao 
dịch với người nghèo thường rất cao vì các ngân 
hàng phải duy trì số lượng tài khoản cao trong 
khi khối lượng giao dịch tài chính thấp. Điều 
này thường làm cho một bộ phận người nghèo 
khó tiếp cận các dịch vụ của ngân hàng (Allen, 
2013). Theo Ndung’u & cộng sự (2016), chi phí 
giao dịch cao và các chi phí khác như chi phí đi 
lại được coi là rào cản đối với người nghèo khi 
tiếp cận các dịch vụ tài chính.
Ngoài ra, chi phí giao dịch như chi phí vận 
chuyển của các tổ chức tài chính, phí gửi tiền, 
rút tiền và phí ATM, lãi suất thẻ tín dụng, lãi 
suất cho vay, chi phí vận hành tài khoản như chi 
phí cho các dịch vụ khác nhau (phí ngân hàng di 
động, phí yêu cầu mở tài khoản, phí ngân hàng 
internet, phí số dư hoạt động phát sinh khi mở 
tài khoản ngân hàng) ảnh hưởng đến nhu cầu sử 
dụng các dịch vụ tài chính. Chính vì vậy, ở một 
số quốc gia đang phát triển số lượng tiền gửi 
thường nhỏ nên các chi phí như vậy có thể làm 
xói mòn sự tiện lợi của các dịch vụ ngân hàng 
(Inganga & cộng sự, 2014). 
3.4. Khoảng cách của ngân hàng (Distance 
of Bank)
Theo Alonso (1964), khi khoảng cách giữa 
người tiêu dùng và nhà cung cấp tăng lên, nhu 
cầu về dịch vụ đó sẽ giảm xuống vì tăng thêm 
chi phí như chi phí đi lại. Theo WorldBank 
(2016), khoảng hai tỷ người hoặc 38% người 
trưởng thành trên thế giới không sử dụng các 
dịch vụ tài chính chính thức, những rào cản của 
73% người nghèo không có tài khoản ngân hàng 
là do chi phí, khoảng cách đi lại và các yêu cầu 
thường xuyên nặng nề liên quan đến việc mở 
một tài khoản tài chính. Ngoài ra, 22% số người 
trưởng thành trên thế giới không có tài khoản 
ngân hàng cho rằng khoảng cách giữa nơi cư trú 
của họ và chi nhánh ngân hàng là rào cản đối với 
họ sử dụng các dịch vụ tài chính (WorldBank, 
2018). Thông thường, rào cản chính đối với tài 
chính toàn diện ở khu vực nông thôn là khoảng 
cách lớn mà người dân nông thôn phải đi đến các 
chi nhánh ngân hàng (AFDB, 2013). Shankar 
(2013) cho rằng khoảng cách của chi nhánh 
ngân hàng đến người dân nông thôn là một rào 
cản chung của các yếu tố thúc đẩy nguồn cung. 
Rào cản lớn nhất của việc đưa tài chính đến các 
vùng nông thôn là khoảng cách từ ngân hàng 
(WorldBank, 2012). Để mở một tài khoản ngân 
hàng cho người dân ở khu vực nông thôn và từ 
chi nhánh ngân hàng đến các vùng sâu vùng xa 
được coi là một thách thức lớn nhất đối với các 
tổ chức tài chính (Samundengu, 2014). Người 
dân ở các khu vực xa xôi và đồi núi có nhiều 
khả năng bị loại trừ về tài chính (Kempson & 
Whyley, 1998) hay tài chính toàn diện có liên 
quan đến gần hơn với các chi nhánh (Allen & 
cộng sự, 2012). 
Do đó, để giảm khoảng cách giữa người dùng 
và dịch vụ tài chính trên toàn cầu, rất nhiều ngân 
hàng và quốc gia trên thế giới đã bắt đầu số hóa 
các dịch vụ ngân hàng. Theo Global Findex 
2017, điện thoại di động và internet có thể giúp 
vượt qua một số rào cản mà những người trưởng 
thành không có khả năng sử dụng các dịch vụ tài 
chính. Ví dụ, dịch vụ tài chính kỹ thuật số có thể 
thu hẹp khoảng cách giữa các tổ chức tài chính 
và khách hàng của họ.
4. Kết luận
Thông qua việc tổng hợp các nghiên cứu 
trước đây ở Việt Nam và trên thế giới có thể thấy 
tài chính toàn diện có vai trò quan trọng và tất cả 
đều thừa nhận rằng tài chính toàn diện là nỗ lực 
nhằm loại bỏ rào cản trong việc sử dụng các dịch 
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅISoá 08 (193) - 2019
32 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
vụ tài chính, giảm đói nghèo và bất bình đẳng, 
và là nền tảng của quá trình tăng trưởng kinh tế 
ở các quốc gia. Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu 
đã chỉ ra các nhân tố khác nhau ảnh hưởng đến 
tài chính toàn diện như: quy mô dân số, tỷ lệ 
giới tính, tỷ lệ biết chữ, học thức, độ tuổi, khu 
vực, việc làm, mức thu nhập, mức tiết kiệm, chi 
phí giao dịch Để làm rõ hơn một số nhân tố 
ảnh hưởng đến tài chính toàn diện, nghiên cứu 
này tập trung nghiên cứu và xác định mức thu 
nhập, mức tiết kiệm, chi phí giao dịch và khoảng 
cách của ngân hàng ảnh hưởng đến tài chính 
toàn diện. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mức 
thu nhập cao hơn, khuyến khích tiết kiệm, giảm 
chi phí giao dịch và giảm khoảng cách giữa các 
ngân hàng với khách hàng là những yếu tố quan 
trọng trong việc gia tăng sử dụng các dịch vụ 
tài chính/tài chính toàn diện. Đồng thời, nghiên 
cứu này cũng có thể khá hữu ích và là nguồn tài 
liệu tham khảo cho các nghiên cứu trong tương 
lai cũng như các nhà hoạch định trong việc xây 
dựng các chính sách nhằm gia tăng sử dụng các 
dịch vụ tài chính/tài chính toàn diện.
Tài liệu tham khảo
AFDB. (2013), ‘Meeting the Growing Demand for 
Retail Banking Services in Africa’, Retrieved October 30th, 
2013, from Africa Development Bank: 
org/en/blogs/afdb-championing-inclusive-growth-across-
africa.
Ajide, F. (2015), ‘Financial Inclusion and Rural Poverty 
Reduction: Evidence from Nigeria’, International Journal 
of Management Sciences and Humanities, 3 (2), 190-203.
Allen, F. (2013), ‘Resolving the African Development 
Financial Gap - A Cross Country Study of Kenya (1st Ed, 
Vol. 1)’, Nairobi: World Bank Press.
Allen, F., Demiguc-Kunt, A., Klapper, L., & Peria, 
M.S.M. (2012), ‘Understanding Ownership and Use of 
Formal Accounts’, Policy Research working paper, No. 
WPS 6290. Washington, DC: World Bank Group.
Ando, A.M., & Modigliani, F. (1963), ‘The Life Cycle 
Hypothesis of Income and Savings’, American Economic 
Review, 5(1), 55-84. 
Beck, T., Demirguc-Kunt, A., & Peria Martinez, S.M. 
(2007), ‘Reaching out: access to and use of banking 
services across countries’, Journal of Financial Economics, 
85, 234–266. 
Demirguc-Kunt, A., & Klapper, L. (2012), ‘Measuring 
Financial Inclusion, The Global Findex Database’, Policy 
Research Working Paper, 6025.
Demirguc-Kunt, A., Klapper, L., Singer, D., & Van 
Oudheusden, P. (2015), ‘The global Findex database 2014: 
Measuring financial inclusion around the world’, 7255. 
Policy Research Working Paper.
Fungáčová, Z., & Weill, L. (2014), ‘Understanding 
financial inclusion in China’, Bank of Finland Discussion 
Papers. No. 10/2014.
Inganga, B.W., Njeru, A., Ombui, K., & Tirimba, O.I. 
(2014), ‘Factors Affecting Customer Demand of Financial 
Services Offered By Commercial Banks in Nairobi 
County’, International Journal of Scientific and Research 
Publications, 4 (11), 1-25.
Kabakova, O., & Plaksenkov, E. (2018), ‘Analysis of 
factors affecting financial inclusion: Ecosystem view’, 
Journal of Business Research, 89, 198–205.
Kempson, E., & Whyley, C. (1998), ‘Access to current 
accounts. London: British Bankers Association’ (quoted in 
Financial Services Authority In or Out).
Keynes, J. M. (1930), ‘A Treatise on Money, Vol. 1: The 
Pure Theory of Money’, Reprinted in Keynes, Collected 
Writings. Vol. 5.
Keynes, J. M. (1930), ‘A Treatise on Money, Vol. 2: The 
Applied Theory of Money’, Reprinted in Keynes, Collected 
Writings, Vol. 6.
Keynes, J.M. (1936), ‘The General Theory of 
Employment, Interest and Money’, London: Macmillan, 
reprinted 2007.
Kohli, N. (2013), ‘Financial Inclusion & Its Impact on 
Banking Sector in India’, Tecnia Journal of Management 
Studies, 7 (2), 8 - 13.
Leyshon, A., & Thrift, N. (1995), ‘Geographies of 
Financial Exclusion: Financial Abandonment in Britain 
and the United States’, Transactions of the Institute of 
British Geographers, 20 (3), 312.
Nandru, P., Anand, B., & Rentala, S. (2015), ‘Factors 
influencing financial inclusion through banking services’, 
Journal of Contemporary Research in Management, 10 (4), 
17-30.
Nguyễn Văn Ngọc (2006), ‘Từ điển Kinh tế học’, Nhà 
xuất bàn Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 
Rangarajan Committee. (2008), ‘Report of Committee 
on Financial Inclusion’.
Williamson, O. (1989), ‘Transaction cost economics’, 
Handbook of Industrial Organization, 1, 136- 82. 
Women’sWorldBanking. (2013), ‘Savings: A Gateway to 
Financial Inclusion’.
World Bank. (2012), ‘World Development Indicators’, 
Washington, DC: World Bank.
World Bank .(2013), ‘Global financial development 
report 2014: Financial inclusion’.
WorldBank. (2015), ‘The World Bank: Press Releas’, 
Retrieved Aug 9, 2016, from Massive Drop in Number of 
Unbanked, says New Report: 
en/news/pressrelease/2015/04/15/massive-drop-in-number-
ofunbanked-says-new-report .
World Bank (2018), ‘The Global Findex Database 
2017: Measuring Financial Inclusion and the Fintech 
Revolution’.
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI Soá 08 (193) - 2019

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_muc_thu_nhap_muc_tiet_kiem_chi_phi_giao_dich_v.pdf