Ảnh hưởng của một số yếu tố đến sự nhiễm bẩn vỏ trứng vịt trong điều kiện chăn nuôi tập trung tại tỉnh Hà Tĩnh

TÓM TẮT

Nghiên cứu này được triển khai tại tỉnh Hà Tĩnh, từ tháng 10 - 11/2018, nhằm xác định một số

phương pháp làm hạn chế sự nhiễm bẩn trên bề mặt vỏ trứng vịt trong điều kiện chăn nuôi tập

trung, chuồng nền có sử dụng đệm lót, sau khi đã khảo sát mức độ nhiễm bẩn trứng vịt tại một số

cơ sở chăn nuôi. Thí nghiệm 1 thực hiện trên chuồng vịt đẻ với 3 kích thước ngăn ô và ổ đẻ để xác

định ảnh hưởng của kích thước ô chuồng đến sự nhiễm bẩn vỏ trứng vịt; thí nghiệm 2 thực hiện

trên các đàn vịt đẻ để xác định ảnh hưởng của thời điểm kết thúc cho ăn trong ngày đến sự nhiễm

bẩn vỏ trứng vịt. Kết quả cho thấy: Vỏ trứng vịt bị nhiễm bẩn ở một số hộ chăn nuôi rất cao, từ

34,67 đến 63,00%. Thí nghiệm 1: Lô 1 (kích thước 1 x 4 m), lô 2 (2 x 4 m), lô 3 (3 x 4 m) mức độ

nhiễm bẩn vỏ trứng vịt trong ổ và trên nền trong các ô chuồng lần lượt là 5,16; 6,83; 12,05% (lô 1

và lô 2 sai khác với lô 3; P = 0,000); thí nghiệm 2: Mức độ nhiễm bẩn vỏ trứng vịt ở lô kết thúc

cho ăn lúc 17 h thấp hơn lô kết thúc lúc 21 h, sai khác có ý nghĩa thống kê (P = 0,021). Chia nhỏ ổ

đẻ và không cho ăn đêm hạn chế sự nhiễm bẩn vỏ trứng vịt.

Từ khóa: bẩn vỏ trứng, ngăn ổ đẻ, không cho vịt đẻ ăn đêm

pdf 6 trang phuongnguyen 1420
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của một số yếu tố đến sự nhiễm bẩn vỏ trứng vịt trong điều kiện chăn nuôi tập trung tại tỉnh Hà Tĩnh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của một số yếu tố đến sự nhiễm bẩn vỏ trứng vịt trong điều kiện chăn nuôi tập trung tại tỉnh Hà Tĩnh

Ảnh hưởng của một số yếu tố đến sự nhiễm bẩn vỏ trứng vịt trong điều kiện chăn nuôi tập trung tại tỉnh Hà Tĩnh
ISSN: 1859-2171 TNU Journal of Science and Technology 194(01): 81 - 86 
 Email: jst@tnu.edu.vn 81 
ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ YẾU TỐ ĐẾN SỰ NHIỄM BẨN VỎ TRỨNG VỊT 
TRONG ĐIỀU KIỆN CHĂN NUÔI TẬP TRUNG TẠI TỈNH HÀ TĨNH 
 Trần Thanh Vân1*, Nguyễn Thị Thúy Mỵ2, Võ Văn Hùng3 
1Ban Khoa học Công nghệ & Môi trường - ĐH Thái Nguyên 
2Trường Đại học Nông Lâm - ĐH Thái Nguyên, 3Trường Đại học Hà Tĩnh 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu này được triển khai tại tỉnh Hà Tĩnh, từ tháng 10 - 11/2018, nhằm xác định một số 
phương pháp làm hạn chế sự nhiễm bẩn trên bề mặt vỏ trứng vịt trong điều kiện chăn nuôi tập 
trung, chuồng nền có sử dụng đệm lót, sau khi đã khảo sát mức độ nhiễm bẩn trứng vịt tại một số 
cơ sở chăn nuôi. Thí nghiệm 1 thực hiện trên chuồng vịt đẻ với 3 kích thước ngăn ô và ổ đẻ để xác 
định ảnh hưởng của kích thước ô chuồng đến sự nhiễm bẩn vỏ trứng vịt; thí nghiệm 2 thực hiện 
trên các đàn vịt đẻ để xác định ảnh hưởng của thời điểm kết thúc cho ăn trong ngày đến sự nhiễm 
bẩn vỏ trứng vịt. Kết quả cho thấy: Vỏ trứng vịt bị nhiễm bẩn ở một số hộ chăn nuôi rất cao, từ 
34,67 đến 63,00%. Thí nghiệm 1: Lô 1 (kích thước 1 x 4 m), lô 2 (2 x 4 m), lô 3 (3 x 4 m) mức độ 
nhiễm bẩn vỏ trứng vịt trong ổ và trên nền trong các ô chuồng lần lượt là 5,16; 6,83; 12,05% (lô 1 
và lô 2 sai khác với lô 3; P = 0,000); thí nghiệm 2: Mức độ nhiễm bẩn vỏ trứng vịt ở lô kết thúc 
cho ăn lúc 17 h thấp hơn lô kết thúc lúc 21 h, sai khác có ý nghĩa thống kê (P = 0,021). Chia nhỏ ổ 
đẻ và không cho ăn đêm hạn chế sự nhiễm bẩn vỏ trứng vịt. 
Từ khóa: bẩn vỏ trứng, ngăn ổ đẻ, không cho vịt đẻ ăn đêm 
Ngày nhận bài: 28/11/2018; Ngày hoàn thiện: 25/12/2018; Ngày duyệt đăng: 31/01/2019 
EFFECT OF SOME FACTORS ON DIRTY LEVEL OF DUCK EGG SHELL AT 
LAYING DUCK FARMS IN HA TINH 
Tran Thanh Van
1*
, Nguyen Thi Thuy My
2
, Vo Van Hung
3 
1Department of Science Technology and Environment - TNU 
2
University of Agriculture and Forestry - TNU, 
3
Ha Tinh University 
ABSTRACT 
This research was carried out in Ha Tinh province from October to November 2018 in order to 
minimize contamination of dirt on the egg shell in intensive duck farming system with litter floor, 
after investigated the dirt contamination on egg shell from several duck farms. Experiment 1 was 
conducted on laying duck farm with 3 different pen size and nest size in order to determine the 
effect of pen size on dirt shell contamination; experiment 2 was conducted on different flocks in 
order to determine the last feeding in a day on the dirt shell contamination. Results showed that: 
The dirt contamination on egg shell collected from several farms was very high, from 34.67 to 
63%. In experiment 1: Pen 1 (size 1 x 4 m), pen 3 (3 x 4 m) the dirt contamination levels were 
5.16; 6.83; 12.05%, respectively. (pen 1 and pen 2 was significantly different compared to pen 3; p 
= 0.000); in experiment 2: The dirt contamination on egg shell levels when the last feeding of the 
day was at 17hr was lower compared to those received the last feeding at 21 hr, this difference was 
significant (p=0.021). It can be concluded that the small pen size and avoid night feeding would 
minimize the dirt egg shell. 
Keywords: dirty shell, laying nest separation, night feeding 
Received: 28/11/2018; Revised: 25/12/2018; Approved: 31/01/2019 
* Corresponding author: Tel: 0912 282816, Email: tranthanhvan@tnu.edu.vn
Trần Thanh Vân và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 194(01): 81 - 86 
 Email: jst@tnu.edu.vn 82 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Sau khi trứng đẻ ra, nhiệt độ giảm đột ngột 
(41
oC ở gia cầm mái xuống bằng nhiệt độ ở 
chuồng nuôi), mầm bệnh bám ở bề mặt của 
quả trứng bị hút vào do áp suất chênh lệch. 
Nếu vỏ trứng bị ẩm ướt và màng trên vỏ bị 
mất, tổn thương, độ ẩm trên bề mặt cùng với 
mầm bệnh sẽ đi qua lỗ khí. Vệ sinh trứng bẩn 
thì chỉ có thể làm giảm đi số lượng mầm bệnh 
trên bề mặt vỏ trứng, còn các mầm bệnh đã đi 
vào lỗ khí hoặc ở trong quả trứng thì khó có 
thể tiêu diệt được chúng. Thay cho việc sử 
dụng nhiều thời gian, năng lượng, tiền của để 
vệ sinh trứng bẩn, thì tốt hơn cả là tập trung 
nỗ lực để có được những quả trứng sạch (Trần 
Thanh Vân và cs, 2015 [3]). 
Việc nghiên cứu mầm bệnh nhiễm từ vỏ trứng 
bị bẩn đã có nhiều tác giả trong và ngoài nước 
thực hiện. Theo Trần Ngọc Bích (2012) [1], 
trên vỏ trứng gia cầm (vịt, vịt xiêm, ngỗng) ở 
tỉnh Hậu Giang nhiễm vi khuẩn Salmonella 
spp. là 13,73%, thậm chí lòng đỏ cũng nhiễm 
vi khuẩn mặc dù chỉ 0,13%. Trương Hà Thái 
và cs (2017) [2] cho biết: Các mẫu trứng thu 
thập tại các chợ bán lẻ ở TP. Hà Nội có tỷ lệ 
nhiễm E. coli trên vỏ trứng là 29,10%. Owen 
M. và cs (2016) [7] đã phát hiện sự xuất hiện 
của Salmonella spp. trong trứng vịt bán tại 
các cửa hàng bán lẻ hoặc từ các cơ sở ăn uống 
ở Anh năm 2011 với tỷ lệ 1,4%. Lucia Rivas 
and Nicola King (2016) [6] cho rằng, mật độ 
vi khuẩn Salmonella trên vỏ quả trứng giảm 
theo thời gian nhưng tỷ lệ giảm là không thể 
đoán trước được. Seokmo và cs (2016) [8] 
cho rằng, nhiễm trùng Salmonella do trứng 
nhiễm bẩn không chỉ là một vấn đề an toàn 
thực phẩm toàn cầu, mà còn có ý nghĩa trong 
ngành dược phẩm để sản xuất vắc xin,... 
Tuy nhiên, việc nghiên cứu để làm giảm sự 
nhiễm bẩn vỏ trứng vịt trong điều kiện chăn 
nuôi nông hộ cũng như trang trại chưa được 
quan tâm đúng mức. Thực tế trứng vịt đưa 
vào ấp hoặc bán trên thị trường có mức độ 
nhiễm bẩn rất cao nhưng người chăn nuôi vẫn 
gặp rất nhiều khó khăn để thu được nhiều quả 
trứng sạch. Nếu trứng bẩn thì sẽ gây nên 
nhiều hậu quả, thiệt hại như phát tán mầm 
bệnh, gây chết phôi cao, tỷ lệ ấp nở thấp 
(trứng ấp), thời gian bảo quản trứng ngắn, mất 
vệ sinh, gây bệnh cho người sử dụng.... 
Xuất phát từ yêu cầu thực tế như vậy, chúng tôi 
đã tiến hành thực hiện đề tài tại tỉnh Hà Tĩnh, 
nơi có số lượng vịt nuôi lấy trứng khá cao. 
PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thời gian, địa điểm nghiên cứu 
Nghiên cứu được triển khai tại tỉnh Hà Tĩnh, 
từ tháng 10 - 11/2018. 
Phương pháp nghiên cứu 
- Khảo sát sơ lược tình hình chăn nuôi vịt và 
sự nhiễm bẩn vỏ trứng vịt: Điều tra ngẫu nhiên 
5 hộ chăn nuôi vịt, thu mẫu trứng ngẫu nhiên 
300 - 320 quả/hộ (trong 3 ngày), tiến hành ước 
lượng mức độ nhiễm bẩn trên bề mặt. 
- Thí nghiệm 1: "Ảnh hưởng của kích thước ô 
chuồng đến sự nhiễm bẩn vỏ trứng vịt": Được 
thiết kế theo kiểu thí nghiệm một nhân tố 
hoàn toàn ngẫu nhiên (kích thước ô chuồng). 
Chuồng nhốt vịt đẻ ban đêm được thiết kế 10 
x 12 m, ở giữa có lối rộng 2 m, hai dãy hai 
bên chia thành 3 ô chuồng kích thước khác 
nhau (3 nghiệm thức): Nghiệm thức (lô) 1: 1 
x 4 m, lô 2: 2 x 4 m và lô 3: 3 x 4 m; mỗi 
nghiệm thức (lô) chia thành 4 đơn vị thí 
nghiệm (4 ô chuồng, tức lặp lại 4 lần); mật độ 
nuôi nhốt 5 con/m2; đệm lót chuồng sử dụng 
trấu dày 10 - 12 cm, ổ đẻ được thiết kế 2 bên 
và phía sau (lô 1 chỉ thiết kế một bên), dọc 
theo bờ tường hoặc vách ngăn, rộng 40 cm, sử 
dụng rơm; vật liệu ngăn cách ổ đẻ và các ô 
chuồng làm đơn giản, bằng các thanh tre, cao 
hơn nền chuồng 40 cm, diện tích ổ đẻ của lô 
1 là 0,4 m
2
, lô 2 là 0,8 m
2
, lô 3 là 1,2 m
2
; ban 
ngày vịt đẻ được nuôi ngoài bãi chăn và sân, 
sử dụng thức ăn viên chuyên dụng cho vịt đẻ. 
Ban đêm, khi tắt đèn chiếu sáng (22 giờ) thì 
cho cả đàn vào chuồng, vịt tự chọn vị trí đứng 
ở lối giữa và chọn ổ đẻ. 
Trứng bẩn: Là những trứng bị bẩn do dính 
phân, trứng vỡ, đệm lót nền ướt bẩn, không 
đủ tiêu chuẩn vệ sinh để sử dụng ấp. 
Trần Thanh Vân và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 194(01): 81 - 86 
 Email: jst@tnu.edu.vn 83 
Sơ đồ các ô chuồng thí nghiệm (sắp xếp ngẫu nhiên) 
Bảng 1. Tình hình vỏ trứng vịt nhiễm bẩn ở các hộ chăn nuôi truyền thống 
Chỉ tiêu Hộ 1 Hộ 2 Hộ 3 Hộ 4 Hộ 5 
Số lượng vịt đẻ (con) 1500 300 1600 700 500 
Tỷ lệ đẻ tại thời điểm khảo sát (%) 85 90 87 86 84 
Kiểu chuồng (trên nền đệm lót, sàn, ...) Nền Nền Nền Nền Nền 
Vật liệu làm đệm lót Rơm Rơm Rơm Rơm Rơm 
Mật độ chuồng nuôi nhốt (con/m2) 5,13 4,85 5,23 4,91 4,87 
Ngăn hoặc không ngăn các ô chuồng Không Không Không Không Không 
Nơi bố trí ổ đẻ 
Quanh 
tường 
Quanh 
tường 
Quanh 
tường 
Quanh 
tường 
Quang 
tường 
Thời gian kết thúc cho ăn trong ngày 5h45 6h 21h 5h45 21h 
Thời gian cho vịt vào chuồng đẻ 5h45 6h 21h 5h45 21h 
Số lượng trứng khảo sát (quả) 315 307 300 320 316 
Tỷ lệ nhiễm bẩn bề mặt vỏ trứng (%) 63,00 61,14 34,67 41,32 39,54 
Thí nghiệm 2 "Ảnh hưởng của thời điểm kết 
thúc cho ăn trong ngày đến sự nhiễm bẩn trứng 
vịt": Chuồng được thiết kế tương tự lô 1 thí 
nghiệm 1 nhưng chia làm hai lô (nghiệm thức): 
Lô thí nghiệm kết thúc cho vịt ăn lúc 17 h, lô 
đối chứng kết thúc cho vịt ăn lúc 21 h; mỗi lô có 
8 đơn vị thí nghiệm (8 lần lặp lại). 
Kiểm tra ước lượng mức độ nhiễm bẩn vỏ 
trứng vịt của các thí nghiệm lúc 5 h sáng. Ở 
thí nghiệm 1, chúng tôi đã kiểm tra ngẫu 
nhiên khoảng 30 quả trứng đẻ trong ổ của 
từng ô chuồng đối với những ô chuồng có số 
lượng trứng trên 30 quả, kiểm tra hết toàn bộ 
với những lô có 30 quả trở xuống; trứng đẻ 
trên nền là những quả trứng đẻ trên nền thuộc 
trong từng ô chuồng. 
Số liệu được cập nhật, quản lý ở phần mềm 
Excel, xử lý bởi phần mềm Minitab 16. 
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
Kết quả khảo sát tình hình nhiễm bẩn vỏ 
trứng vịt 
Qua khảo sát 5 hộ chăn nuôi vịt trên địa bàn 
Hà Tĩnh, kết quả được thể hiện tại bảng 1. 
Bảng 1 cho ta thấy: các hộ chăn nuôi vịt từ 
300 đến 1.600 con. Tỷ lệ vịt đẻ tại thời điểm 
khảo sát đang ở mức bình thường, từ 84 - 
90%. Kiểu chuồng nền, có đệm lót bằng rơm. 
Mật độ chuồng nuôi nhốt dao động từ từ 4,85 
- 5,23 con/m
2. Chuồng không có ngăn cách 
nhỏ thành từng ô riêng, nơi bố trí ổ đẻ là xung 
quanh bờ tường. Thời gian kết thúc cho ăn thì 
cũng mở cửa cho vịt vào chuồng nuôi. Số 
Trần Thanh Vân và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 194(01): 81 - 86 
 Email: jst@tnu.edu.vn 84 
trứng khảo sát từ 300 - 320 quả/hộ, kết quả 
cho thấy mức độ nhiễm bẩn bề mặt vỏ trứng 
rất cao, từ 34,67 đến 63,00%, đặc biệt nhiều 
trứng bị bẩn vỏ khi ở những lô cho vịt vào 
chuồng sớm, ngay từ chập tối. 
Kết quả này cho thấy, cần phải nghiên cứu 
giải pháp hợp lý để hạn chế tối đa sự nhiễm 
bẩn vỏ trứng vịt. Tuy nhiên, giải pháp phải 
đơn giản, nông dân dễ áp dụng, không gây tốn 
kém kinh phí đầu tư. 
Kết quả thí nghiệm 1 
Thí nghiệm "Ảnh hưởng của kích thước ô 
chuồng đến sự nhiễm bẩn vỏ trứng vịt" được 
trình bày tại bảng 2. 
Kết quả bảng 2 cho thấy, tỷ lệ trứng đẻ trên 
nền trong các ô chuồng của lô 1, 2, 3 lần lượt là 
6,79; 6,44 và 7,45%. Như vậy, lô 2 có tỷ lệ 
trứng đẻ trên nền thấp nhất, tiếp đến là lô 1, cao 
nhất là lô 3. Tuy nhiên, sự sai khác này không 
có ý nghĩa về mặt thống kê (P = 0,903 > 0,05). 
Tỷ lệ nhiễm bẩn trên bề mặt vỏ trứng vịt cả 
trong ổ và trên nền trong các ô chuồng là chỉ 
tiêu hết sức quan trọng. Kết quả thí nghiệm 
này cho thấy, lô 1 có tỷ lệ nhiễm bẩn vỏ trứng 
thấp nhất, chỉ 5,16%; tỷ lệ nhiễm bẩn vỏ 
trứng ở lô 2 là 6,83%; ở lô 3, tỷ lệ nhiễm bẩn 
cao nhất, 12,05%. 
Tỷ lệ nhiễm bẩn vỏ trứng vịt lô 1 và lô 2 không 
sai khác nhau nhưng lô 1 và lô 3, lô 2 và lô 3 có 
sự sai khác nhau (P = 0,000 < 0,05). 
Tỷ lệ nhiễm bẩn vỏ trứng vịt đối với các quả 
trứng đẻ trên nền trong các ô chuồng ở lô 1 
thấp nhất, 12,22%; lô 2 và 3 lần lượt là 
31,33%, 34,02%. Lô 1 sai khác với lô 2 và lô 
3. Lô 2 và lô 3 không có sự sai khác nhau. 
Tỷ lệ nhiễm bẩn vỏ trứng vịt trong thí nghiệm 
này, cả 3 lô đều rất thấp so với tỷ lệ nhiễm 
bẩn trứng khảo sát trong các hộ nông dân 
khác. Đặc biệt, lô 1, vỏ trứng vịt bẩn đã giảm 
khoảng 6,72 đến 12,00 lần so với vỏ trứng vịt 
khảo sát (5,16% lô 1 so với 34,67 - 63,00% 
trứng khảo sát). 
Sở dĩ các lô thí nghiệm, đặc biệt lô 1 có tỷ lệ 
nhiễm bẩn vỏ trứng thấp, theo chúng tôi, do 
kiểu thiết kế chuồng loại này hạn chế thấp 
nhất vịt đi lại trong ổ đẻ và trong ô chuồng. 
Khi vịt đi lại trong chuồng nhiều sẽ có nguy cơ 
cao giẫm đạp phải phân vịt và khi đi lại trên ổ 
đẻ sẽ giẫm đạp chân bẩn lên ổ đẻ và trứng. Mặt 
khác, vịt đi lại nhiều trên ổ đẻ có thể đồng thời 
thải phân lên ổ đẻ, gây bẩn trứng. 
Ngay cả những quả trứng vịt đẻ trên nền trong 
các ô chuồng thì mức độ nhiễm bẩn vỏ trứng 
ở lô 1 cũng thấp (12,22%), tương đương với 
trung bình nhiễm bẩn những trứng đẻ trong tổ 
của lô 3. Điều này chứng tỏ thiết kế các ô nhỏ 
trong chuồng vịt đã hạn chế chúng đi lại dẫn 
đến hạn chế trứng vịt bị nhiễm bẩn. 
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng 
thấy rằng, số lượng trứng thu được trong các 
ô chuồng cùng loại là khác nhau nhưng sự 
nhiễm bẩn của trứng ở các ô chuồng cùng loại 
không khác nhau. Tức là mặc dù số vịt vào đẻ 
trong ô chuồng cùng kích thước (cùng diện 
tích ổ đẻ) có thể nhiều hơn hay ít hơn nhưng 
sự nhiễm bẩn vỏ trứng như nhau. 
Kết quả trên có thể khẳng định, lô 1 là lô có 
tỷ lệ trứng nhiễm bẩn thấp nhất, cần lựa chọn 
loại ô chuồng có kích thước này (1 x 4 m) áp 
dụng vào sản xuất để hạn chế thấp nhất sự 
nhiễm bẩn vỏ trứng trong điều kiện chăn nuôi 
tập trung, chuồng nền có đệm lót. Với kiểu 
chuồng này hết sức đơn giản, tốn ít vật liệu và 
nhân công, sử dụng thuận tiện nên nông dân 
có thể áp dụng được vào sản xuất. 
Kết quả thí nghiệm 2 
Thí nghiệm 2 "Ảnh hưởng của thời điểm kết 
thúc cho ăn trong ngày đến sự nhiễm bẩn 
trứng vịt" được thể hiện tại bảng 3. 
Kết quả bảng 3 cho thấy: Tỷ lệ nhiễm bẩn của 
lô thí nghiệm và lô đối chứng có sự sai khác 
nhau (P = 0,021), mặc dù lô thí nghiệm 
(4,44%) thấp hơn lô đối chứng (5,29%) rất ít, 
chỉ 0,85%. 
Trần Thanh Vân và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 194(01): 81 - 86 
 Email: jst@tnu.edu.vn 85 
Bảng 2. Ảnh hưởng của kích thước ô chuồng đến sự nhiễm bẩn bề mặt vỏ trứng vịt 
Chỉ tiêu Lô n M (%) SEM P 
Tỷ lệ trứng đẻ trên nền trong các ô chuồng so 
với tổng số trứng trong lô (1) 
1 4 6,79 1,60 
0,903 2 4 6,44 1,60 
3 4 7,45 1,60 
Tỷ lệ nhiễm bẩn trên bề mặt vỏ trứng cả 
trong ổ và trên nền trong các ô chuồng 
1 317 5,16
a
 0,62 
0,000 2 606 6,83
a
 0,45 
3 500 12,05
b
 0,49 
Tỷ lệ nhiễm bẩn trên bề mặt vỏ trứng trên 
nền trong các ô chuồng 
1 27 12,22
a
 2,92 
0,000 2 75 31,33
b
 1,75 
3 46 34,02
b
 2,24 
Ghi chú: n: Số mẫu (n của chỉ tiêu (1) là số đơn vị thí nghiệm, các chỉ tiêu khác là quả); M: Số trung bình; 
SEM: Sai số của số trung bình; P: Xác xuất thống kê; các giá trị trung bình trong cột cùng một tính trạng có 
từ một chữ cái giống nhau thì không sai khác nhau; so sánh sự sai khác nhau của các tính trạng với P ≤ 0,05. 
Bảng 3. Ảnh hưởng của thời điểm kết thúc cho vịt ăn đến sự nhiễm bẩn vỏ trứng 
Chỉ tiêu 
Lô thí nghiệm 
(Kết thúc cho ăn lúc 21 h) 
Lô đối chứng 
(Kết thúc cho ăn lúc 17 h) 
Số trứng kiểm tra 
(quả) 
620 612 
Tỷ lệ trứng bị bẩn 
vỏ (%) 
4,44 5,29 
SEM 0,26 0,26 
P 0,021 
Sở dĩ lô thí nghiệm có mức độ nhiễm bẩn vỏ 
trứng thấp, theo chúng tôi, do vịt được kết 
thúc ăn, uống nước sớm hơn do vậy khi vào 
chuồng vịt khô ráo hơn, vịt thải phân bên 
ngoài sân, bãi trước khi vịt vào chuồng nhiều 
hơn vì thế ít ảnh hưởng đến bẩn ổ đẻ, giảm sự 
nhiễm bẩn trứng vì theo Trần Thanh Vân và 
cs (2015) [3], vịt thường đẻ vào lúc 2 - 4 h 
sáng, thời gian thức ăn lưu lại đường tiêu hóa 
của vịt đẻ sau khi ăn vào là khoảng 240 phút. 
Tuy nhiên, mức độ nhiễm bẩn của lô thí 
nghiệm và lô đối chứng chênh lệch nhau 
không nhiều, lý do có thể do việc thiết kế các 
ô chuồng đã hợp lý (kế thừa từ thí nghiệm 1) 
nên đã hạn chế rất nhiều đến sự nhiễm bẩn 
của vỏ trứng, hơn nữa, kể cả kết thúc cho ăn 
lúc 21 h, 22 h cho vịt vào chuồng, thì khi vịt 
đẻ lúc 2 h sáng cũng có khoảng thời gian sau 
ăn là trên 240 phút, những cá thể đẻ sớm, 
trước 2 h sáng không nhiều, theo Trần Thanh 
Vân và Nguyễn Thị Minh (2018) [4] thì đến 
lúc 2 h sáng mới có 8 - 10% số vịt đẻ trứng 
vào thời gian này. 
Theo Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và 
FAO (2017) [5], để thu được nhiều trứng 
sạch, cần phải: Luôn luôn vệ sinh chuồng 
nuôi khô, sạch sẽ; đảm bảo đủ ổ đẻ, đặt ở các 
vị trí thích hợp; luyện cho vịt mái đẻ ở ổ đẻ để 
hạn chế thấp nhất việc đẻ trứng trên nền 
chuồng; đệm lót ổ đẻ phải giữ luôn khô, sạch, 
tránh ẩm ướt, dính phân và đất bẩn; thu nhặt 
trứng ngay sau khi thả vịt và xếp vào khay 
sạch,... Qua kết quả nghiên cứu từ hai thí 
nghiệm trên, chúng tôi cho rằng, ngoài việc 
thực hiện tốt khuyến cáo của Trung tâm 
Khuyến nông Quốc gia và FAO (2017) [5] thì 
cần bổ sung thêm nội dung ngăn cách ổ đẻ 
thành các ô nhỏ và cho vịt ăn kết thúc sớm để 
thu được nhiều trứng sạch hơn. 
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 
Vỏ trứng vịt bị nhiễm bẩn ở hộ chăn nuôi vịt 
theo phương thức truyền thống rất cao, từ 
34,67 đến 63,00%. 
Với 3 mức kích thước ô chuồng khác nhau 
trong cùng một chuồng nuôi vịt đẻ diện tích 
10 x 12 m đã ảnh hưởng đến sự nhiễm bẩn vỏ 
trứng vịt. Cụ thể: Mức độ nhiễm bẩn vỏ trứng 
vịt cả trong ổ và trên nền trong các ô chuồng 
lô 1 (1 x 4 m) là 5,15%, lô 2 (2 x 4 m) là 
Trần Thanh Vân và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 194(01): 81 - 86 
 Email: jst@tnu.edu.vn 86 
6,83%, lô 3 (3 x 4 m) là 12,05%. Lô 1 và lô 2 
sai khác với lô 3 (P = 0,000); mức độ nhiễm 
bẩn vỏ trứng vịt trên nền trong các ô chuồng 
lô 1, 2, 3 lần lượt là 12,22, 31,33, 34,02% (lô 
1 sai khác với lô 2 và lô 3; P = 0,000). 
Mức độ nhiễm bẩn vỏ trứng vịt lô thí nghiệm 
(cho ăn kết thúc lúc 17 h) và lô đối chứng (kết 
thúc cho ăn lúc 21 h) có sự sai khác nhau (P = 
0,021). 
Sử dụng kết quả nghiên cứu ngăn ổ đẻ, không 
cho vịt ăn đêm để hạn chế vỏ trứng bị bẩn 
làm tài liệu tham khảo và hướng dẫn kỹ thuật 
khuyến nông cho hộ chăn nuôi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Trần Ngọc Bích (2012), "Tỷ lệ nhiễm vi khuẩn 
Salmonella trên thủy cầm và sản phẩm thủy cầm 
tại tỉnh Hậu Giang", Tạp chí Khoa học, Trường 
Đại học Cần Thơ, 2012:23a, tr. 235 - 242. 
2. Trương Hà Thái, Phạm Hồng Ngân, Chu Thị 
Thanh Hương, Cam Thị Thu Hà (2017), "Khả 
năng kháng kháng sinh của E. coli và Salmonella 
phân lập từ trứng gia cầm bán tại một số chợ trên 
địa bàn Thành Phố Hà Nội", Tạp chí Khoa học 
Nông nghiệp Việt Nam, 15(6), tr. 770 - 775. 
3. Trần Thanh Vân, Nguyễn Duy Hoan và Nguyễn 
Thị Thúy Mỵ (2015), Giáo trình chăn nuôi gia 
cầm, ISBN 978 - 604 - 60 -1989 - 3, Nxb Nông 
nghiệp, Hà Nội. 
4. Trần Thanh Vân, Nguyễn Thị Minh (2018), Vịt 
Cỏ, vịt Khaki Campbell và con lai nuôi tại Việt 
Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 
5. Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và FAO 
(2017), Sổ tay hỏi đáp về thực hành tốt và an toàn 
sinh học trong chăn nuôi vịt, ngan bố mẹ quy mô 
vừa và nhỏ ở nông hộ, Thư viện sách Trung tâm 
Khuyến nông Quốc gia. 
6. Lucia Rivas and Nicola King (2016), Risk 
profile (update): Salmonella (Non typhoidal) in 
and on eggs, pp.16. 
7. Owen M., Jorgensen F., Willis C., McLauchli 
J., Elviss N., Aird H., Fox A., Kaye M., Lane 
C., DePinna E. (2016), "The occurrence 
of Salmonella spp. in duck eggs on sale at retail or 
from catering in England", Journal Applied 
Microbiology, 63:5, pp. 335 - 339. 
8. Seockmo K., Eduardo X., Thomas K. and Michael 
R. Ladisch (2016), "Salmonella in Shell Eggs: 
Mechanisms, Prevention and Detection", Journal of 
Nutrition & Food Sciences, 6:1, pp. 2 - 7. 

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_mot_so_yeu_to_den_su_nhiem_ban_vo_trung_vit_tr.pdf