Ảnh hưởng của liều lượng phân bón NPK đến sinh trưởng và chất lượng rừng trồng bạch đàn PNCTIV tại huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ

TÓM TẮT

Sử dụng phân bón NPK với liều lượng khác nhau trong trồng rừng Bạch đàn giống PNCTIV đã có những

ảnh hưởng khác biệt đến năng suất và chất lượng rừng. Trong 3 công thức thí nghiệm, tại thời điểm cây 53

tháng tuổi, liều lượng bón 1000g/cây (CT3) cho thấy các chỉ tiêu sinh trưởng về đường kính ngang ngực

(D1.3, cm) và chiều cao vút ngọn (Hvn, m) của cây đều vượt hơn so với công thức đối chứng (CT1) ở liều

lượng bón 400g/cây - như rừng trồng sản xuất cây nguyên liệu giấy hiện hành. Chất lượng thân cây của công

thức CT3 cũng cho thấy sự vượt trội so với các công thức còn lại.

Từ khóa: Bạch đàn PNCTIV, phân bón, sinh trưởng.

pdf 5 trang phuongnguyen 3240
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của liều lượng phân bón NPK đến sinh trưởng và chất lượng rừng trồng bạch đàn PNCTIV tại huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của liều lượng phân bón NPK đến sinh trưởng và chất lượng rừng trồng bạch đàn PNCTIV tại huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ

Ảnh hưởng của liều lượng phân bón NPK đến sinh trưởng và chất lượng rừng trồng bạch đàn PNCTIV tại huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ
KHOA HỌC NÔNG - LÂM NGHIỆP
Tạp chí Khoa học Công nghệ • Số 1 (1) - 201596
ẢNH HƯỞNG CỦA LIỀU LƯỢNG PHÂN BÓN NPK 
ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ CHẤT LƯỢNG RỪNG TRỒNG 
BẠCH ĐÀN PNCTIV TẠI HUYỆN PHÙ NINH, TỈNH PHÚ THỌ
Nguyễn Thị Xuân Viên1, Triệu Hoàng Sơn2, Hà Ngọc Anh2 
1 Khoa Nông Lâm Ngư, Trường Đại học Hùng Vương 
2Viện nghiên cứu cây nguyên liệu giấy
TÓM TẮT
Sử dụng phân bón NPK với liều lượng khác nhau trong trồng rừng Bạch đàn giống PNCTIV đã có những 
ảnh hưởng khác biệt đến năng suất và chất lượng rừng. Trong 3 công thức thí nghiệm, tại thời điểm cây 53 
tháng tuổi, liều lượng bón 1000g/cây (CT3) cho thấy các chỉ tiêu sinh trưởng về đường kính ngang ngực 
(D1.3, cm) và chiều cao vút ngọn (Hvn, m) của cây đều vượt hơn so với công thức đối chứng (CT1) ở liều 
lượng bón 400g/cây - như rừng trồng sản xuất cây nguyên liệu giấy hiện hành. Chất lượng thân cây của công 
thức CT3 cũng cho thấy sự vượt trội so với các công thức còn lại.
Từ khóa: Bạch đàn PNCTIV, phân bón, sinh trưởng.
1. Mở đầu
Hiện nay, đất trồng rừng nguyên liệu giấy ngày 
càng hạn hẹp, không thể tránh khỏi việc thiết lập 
rừng trồng công nghiệp trên những vùng đất đã qua 
thời gian dài trồng rừng nhiều luân kỳ, đất đã thoái 
hóa, rất bạc màu dẫn đến năng suất rừng thấp (Phạm 
Thế Dũng và Kiều Tuấn Đạt, 2012). Do đó, yêu cầu 
cấp thiết hiện nay là phải nâng cao năng suất rừng 
trồng trên diện tích đất hiện có để có thể đáp ứng 
được nhu cầu trong điều kiện đất cho trồng rừng 
không tăng (Schonau A. P. G, 1985). Làm thế nào để 
nâng cao năng suất rừng trên một đơn vị diện tích 
cần phải có những hướng giải quyết về giống và biện 
pháp kỹ thuật thâm canh rừng trồng. Bón phân phù 
hợp là một trong các giải pháp có hiệu quả giúp tăng 
năng suất và chất lượng của rừng trồng cây nguyên 
liệu giấy.
Do vậy, việc nghiên cứu để điều chỉnh bổ sung, 
tăng cường về liều lượng phân bón NPK cho phù 
hợp (Nguyễn Minh Đức và cộng sự, 2006), chọn 
ra liều lượng bón có hiệu lực làm tăng năng suất 
đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế cao cho kinh 
doanh rừng trồng là rất cần thiết. Bài viết này 
trình bày kết quả nghiên cứu đề tài về ảnh hưởng 
của liều lượng phân bón đến sinh trưởng và chất 
lượng rừng trồng bach đàn tại Phù Ninh - Phú 
Thọ, với mục tiêu là giới thiệu kết quả về liều 
lượng phân bón NPK thích hợp cho rừng trồng 
bạch đàn tại khu vực nghiên cứu.
2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
2.1. Nội dung
Nghiên cứu ảnh hưởng của các công thức bón 
phân khác nhau đến tỷ lệ sống, sinh trưởng và chất 
lượng rừng trồng Bạch đàn PNCTIV.
2.2. Vật liệu nghiên cứu
- Giống: Dòng Bạch đàn PNCTIV là giống tiến bộ 
kỹ thuật của Viện nghiên cứu cây nguyên liệu giấy 
được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công 
nhận năm 2014.
- Phân bón: phân bón tổng hợp NPK tỷ lệ 10:5:5.
2.2. Phương pháp
Bố trí thí nghiệm
- Bố trí theo khối đầy đủ ngẫu nhiên hoàn toàn, 
diện tích thí nghiệm được chia ra 4 khối (4 lặp) sao 
cho trong mỗi khối có được điều kiện lập địa tương 
đối đồng nhất. Trong từng khối bố trí đầy đủ các 
công thức tham gia thí nghiệm với số lượng là 64 
cây/công thức (8 hàng x 8 cây).
Tạp chí Khoa học Công nghệ • Số 1 (1) - 2015
KHOA HỌC NÔNG - LÂM NGHIỆP
97
Bảng 1: Công thức bố trí thí nghiệm
Công thức
Liều lượng 
(gam)
Chia ra
Năm 1 
Bón lót 
(gam)
Năm 2 
Bón thúc 1 lần 
(gam)
Năm 3 
Bón thúc 1 lần 
(gam)
CT1 (Đc) 400 200 200
CT 2 600 400 200
CT 3 1000 500 300 200
Ghi chú:
+ CT1 (công thức): Bón lót: 200g + bón thúc 
năm 2: 200g (Như sản xuất - công thức đối chứng)
+ CT2: Bón lót: 400g + bón thúc năm 2: 200g
+ CT3: Bón lót: 500g + bón thúc năm 2: 300g + 
bón thúc năm 3: 200g
- Bón lót: Bón trước khi trồng cây 10 ngày.
- Bón thúc năm 2: Bón khi chăm sóc rừng lần 1 
năm thứ 2 (Tháng 3- 4)
- Bón thúc năm 3: Bón khi chăm sóc rừng lần 1 
năm thứ 3 (Tháng 3- 4)
- Địa điểm bố trí thí nghiệm: xã Bảo Thanh, 
huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ
- Mật độ trồng: 1.333 cây/ha (hàng cách hàng = 3 
m; cây cách cây = 2,5 m)
- Kích thước hố trồng: 40 cm x 40 cm x 40 cm
- Thời vụ trồng: vụ Xuân (tháng 3 đến tháng 4)
- Phương pháp trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng 
áp dụng theo quy trình trồng rừng hiện hành của 
Tổng Công ty giấy Việt Nam (trừ liều lượng phân 
bón vì đây là nhân tố thí nghiệm).
- Thời gian trồng tháng 5 năm 2011
Phương pháp thu thập số liệu
Đánh giá tình hình sinh trưởng và chất lượng 
rừng trồng thông qua việc thu thập các chỉ tiêu của 
tất cả các cây trong ô thí nghiệm, thực hiện vào cuối 
mùa sinh trưởng gồm có: Tỷ lệ sống (%), đường 
kính ngang ngực (D1.3, cm), đường kính tán lá (Dt, 
m), chiều cao vút ngọn (Hvn, m), cấp sinh trưởng, độ 
thẳng thân cây.
Tỷ lệ sống: Đếm các cây còn sống trong ô 
tiêu chuẩn.
Đường kính thân cây (D1.3): Đo tại vị trí cách 
mặt đất 1,3m, đo bằng thước kẹp kính (độ chính xác 
đến mm)
Chiều cao vút ngọn (Hvn): Đo từ sát mặt đất tới 
đỉnh ngọn sinh trưởng, đo bằng thước mét (sào 
bằng tre, nứa: có khắc các giá trị đo) (độ chính xác 
đến cm)
Đường kính tán (Dt): Đo chiều rộng tán bằng 
thước mét, đo chiều rộng tán ở hai hướng Đông - 
Tây và Nam - Bắc sau đó lấy trị số trung bình cộng 
của hai chiều tán để đánh giá.
Đánh giá theo cấp sinh trưởng của cây: Được 
chia làm 3 cấp như sau:
Cấp I: Cây sinh trưởng tốt, sức sống tốt, không 
sâu, bệnh
Cấp II: Cây sinh trưởng bình thường
Cấp III: Cây sinh trưởng chậm, sức sống kém, bị 
sâu hoặc bệnh làm ảnh hưởng đến sức sinh 
trưởng.
Đánh giá độ thẳng thân cây: Được chia làm 3 cấp 
như sau:
Cấp I: Thân cây thẳng
Cấp II: Thân cây có một vài chỗ hơi cong, nhưng 
đường trục thẳng từ ngọn tới gốc chưa vượt 
ra ngoài giới hạn thân cây.
Cấp III: Thân cây rất cong, đường trục thẳng từ gốc 
đã vượt ra ngoài giới hạn thân cây
Phương pháp tính và xử lý số liệu:
Tỷ lệ sống (TLS): (%)
Trong đó: Nht: là mật độ rừng hiện tại, Nbd: là 
mật độ trồng rừng ban đầu
Hệ số biến động (S%) được tính theo công thức: 
S% = Sd / X * 100
100×=
Nbd
NhtTLS
KHOA HỌC NÔNG - LÂM NGHIỆP
Tạp chí Khoa học Công nghệ • Số 1 (1) - 201598
Trong đó: S%: Là hệ số biến động, Sd: Là sai tiêu 
chuẩn mẫu, X : Là trung bình mẫu.
Lượng tăng trưởng bình quân chung về đường 
kính D1.3 & chiều cao Hvn
DD1.3 = X /A (cm/năm) 
DHvn = X /A (m/năm)
Trong đó: 
 : Là giá trị trung bình về D1.3 & Hvn tại tuổi A
A: Là tuổi cây
Số liệu sau khi thu thập được xử lý và phân tích 
theo phương pháp thống kê trong lâm nghiệp; Xử lý 
bằng phần mềm SPSS 16.0. Phương pháp phân tích 
phương sai (ANOVA) trong SPSS được áp dụng cho 
kiểu thí nghiệm theo khối ngẫu nhiên đầy đủ để so 
sánh, đánh giá sinh trưởng rừng trồng giữa các công 
thức thí nghiệm. Trong bảng phân tích phương sai, 
ở hàng “công thức”: (+) nếu xác suất của F (Sig.) > 
0,05 thì sinh trưởng (D1.3, Hvn) giữa các công thức 
là thuần nhất (không có sự sai khác hoặc sai khác 
không có ý nghĩa); (+) nếu xác suất của F (Sig.) < 
0,05 thì sinh trưởng (D1.3, Hvn) giữa các công thức 
không thuần nhất (sai khác có ý nghĩa).
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Đánh giá ảnh hưởng của các công thức thí 
nghiệm bón phân đến tỷ lệ sống rừng trồng dòng 
Bạch đàn PNCTIV
Bảng 2 dưới đây cho thấy: Tại địa điểm xã Bảo 
Thanh, ở thời điểm 7 tháng tuổi, tỷ lệ sống trong tất cả 
các công thức thí nghiệm đạt trên 98%, ở thời điểm 18 
tháng tuổi tỷ lệ sống giảm trung bình là 1,2%, đến 30 
tháng tuổi tỷ lệ sống trung bình là 95,8% giảm so với ở 
thời điểm sau trồng 7 tháng tuổi là 2,6%. Ở thời điểm 
53 tháng tuổi, tỷ lệ sống trong tất cả các công thức thí 
nghiệm đã tương đối ổn định đạt trên 94,6% chỉ giảm 
so với ở thời điểm 30 tháng tuổi là 1,2%. Trong 3 công 
thức thí nghiệm thì công thức 1 đạt tỷ lệ sống cao nhất 
(96,3%), công thức 3 tỷ lệ sống thấp nhất 91,9%. Kết 
quả kiểm tra sự sai khác giữa các công thức thí nghiệm 
cho thấy, giữa 3 công thức thí nghiệm chưa có sự sai 
khác (c2 = 0,199 > 0,05).
X
Bảng 2. Tỷ lệ sống của rừng trồng dòng Bạch đàn PNCTIV
Địa điểm
Công thức 
thí nghiệm
7 Tháng 
(10/2011) 
(%)
18 Tháng 
(10/2012) 
(%)
30 Tháng 
(10/2013) 
(%)
42 Tháng 
(10/2014) 
(%)
53 Tháng 
(9/2015) 
(%)
Bảo 
Thanh
CT1 97,9 96,5 96,3 96,3 96,3
CT2 98,6 98,6 95,6 95,6 95,6
CT3 98,6 96,5 95,6 91,9 91,9
TB 98,4 97,2 95,8 94,6 94,6
Kết quả trên hoàn toàn phù hợp với những 
nghiên cứu trước đây về theo dõi diễn biến tỷ lệ sống 
của các dòng vô tính bạch đàn, tỷ lệ sống của rừng 
trồng Bạch đàn thường rất cao đạt từ 90 - 95% cho 
đến các năm thứ 4 và 5 sau trồng. Đặc biệt, trong 
các thí nghiệm nghiên cứu, tỷ lệ này được duy trì 
cao hơn so với rừng trồng sản xuất đại trà do các thí 
nghiệm được chăm sóc và bảo vệ tốt hơn (Nguyễn 
Quang Đức và Nguyễn Thái Ngọc, 2006; Nguyễn 
Hoàng Nghĩa và cộng sự, 2013).
3.2. Đánh giá ảnh hưởng của các công thức thí 
nghiệm bón phân đến sinh trưởng rừng trồng 
dòng Bạch đàn PNCTIV
Kết quả theo dõi các chỉ tiêu sinh trưởng rừng 
trồng tại thời điểm 53 tháng tuổi được tổng hợp qua 
bảng 3. Khả năng sinh trưởng về đường kính thân 
cây tại vị trí 1.3 m (D1.3) và chiều cao vút ngọn (Hvn) 
là tốt và có sự khác nhau rõ rệt giữa các công thức 
thí nghiệm (sig < 0,05).
Trong 3 công thức thí nghiệm thì công thức CT3 
(Bón lót: 500g + bón thúc năm 2: 300g + bón thúc 
năm 3: 200g) có sinh trưởng về đường kính D1.3 là 
11,2 cm, chiều cao vút ngọn Hvn là 16,9 m, lượng 
tăng trưởng bình quân hàng năm (ΔD1.3 và ΔHvn) là 
lớn nhất. Đồng thời, rừng trồng có tỷ lệ đồng đều về 
đường kính và chiều cao cao nhất, hệ số biến động 
(S%) nhỏ nhất, lần lượt là 11,5% và 5,9%. Công thức 
đối chứng bón phân như sản xuất hiện tại CT1 (Bón 
lót: 200g + bón thúc năm 2: 200g) cho sinh trưởng 
về đường kính, chiều cao vút ngọn, lượng tăng 
trưởng bình quân hàng năm là thấp nhất rừng phát 
triển không đồng đều, sinh trưởng về đường kính và 
chiều cao đạt lần lượt 10,3 cm; 16,1 m. 
Tạp chí Khoa học Công nghệ • Số 1 (1) - 2015
KHOA HỌC NÔNG - LÂM NGHIỆP
99
Bảng 3. Sinh trưởng rừng trồng dòng Bạch đàn PNCTIV (53 tháng tuổi)
Công thức 
thí nghiệm
D1.3 (cm) S% (%) ΔD1.3 (cm)
Hvn 
(m)
S% (%)
ΔHvn 
(m)
CT1 10,3 16,7 2,3 16,1 6,8 3,6
CT2 11,1 13,4 2,5 16,3 6,6 3,7
CT3 11,2 11,5 2,5 16,9 5,9 3,8
TB 10,9 13,9 2,5 16,4 6,4 3,7
Kết quả phân 
tích phương sai
Sig= 0,001 Sig=0.001
3.3. Đánh giá ảnh hưởng của các công thức thí 
nghiệm bón phân đến chất lượng rừng trồng dòng 
Bạch đàn PNCTIV
Qua bảng 4 cho thấy: Cả 3 công thức thí nghiệm 
đều có tỷ lệ cây sinh trưởng tốt (trên 72,2%) và chất 
lượng thân cây đạt độ thẳng cấp một cao trên 98%. 
Trong 3 công thức thí nghiệm thì công thức CT3 
có tỷ lệ cây cấp 1 về cấp sinh trưởng đạt 90%, chất 
lượng thân cây đạt độ thẳng cấp 1 rất cao 100%. 
Riêng công thức CT1, tỷ lệ cây cấp 1 chỉ đạt 72,2%, 
nhưng về độ thẳng thân cây cũng đạt rất cao 99,4%.
Như vậy, với tỷ lệ cây sinh trưởng có chất lượng 
cao, cùng với sự phát triển đồng đều được đánh giá 
thông qua hệ số biến động về sinh trưởng đường kính 
thân cây và sinh trưởng chiều cao sẽ là những yếu tố 
tạo điều kiện quan trọng để rừng trồng dòng Bạch 
đàn PNCTIV ở địa điểm Bảo Thanh đạt năng suất chất 
lượng cao sau này.
Bảng 4: Chất lượng rừng trồng dòng Bạch đàn PNCTIV
Công thức 
thí nghiệm
Cấp sinh trưởng (%) Độ thẳng thân cây (%)
Cấp 1 Cấp 2 Cấp 3 Cấp 1 Cấp 2 Cấp 3
CT1 72,2 27,8 - 99,4 0,6 -
CT2 88,7 11,3 - 98,7 1,3 -
CT3 90 10 - 100 - -
TB 83,6 16,4 - 99,37 0,63 -
Kết quả trên bước đầu đã có ý nghĩa nhất định, 
giúp người trồng rừng xác định đầu tư liều lượng 
phân bón phù hợp để nâng cao năng suất và chất 
lượng rừng trồng bạch đàn. Tuy nhiên, vấn đề phân 
bón cho rừng trồng vẫn có những kết quả rất khác 
nhau: Nguyễn Thu Hương, Lê Quốc Huy và Ngô 
Đình Quế (2006) cho rằng, các tài liệu bón phân 
đều không đề cập rõ ràng về chủng loại, tỷ lệ thành 
phần phân bón và cũng chưa quan tâm đến việc bón 
phân trên các loại đất khác nhau. Qua đây, nhóm 
tác giả đã kết luận rằng, phương thức phối trộn hai 
loại phân là phân vô cơ (lân, NPK) và phân hữu cơ 
(phân chuồng, lân hữu cơ vi sinh) cho thấy hiệu quả 
và hiệu lực phân bón cao nhất, đặc biệt trên các lập 
địa bị thoái hóa nặng, đất chua, nghèo dinh dưỡng. 
Kết quả khảo sát rừng trồng Bạch đàn urô và keo lai 
được bón phân của Nguyễn Đức Minh, Nguyễn Thu 
Hương và Đoàn Đình Tam (2006) cho thấy, ở những 
nơi có điều kiện bón phân chuồng kết hợp với 100 g 
NPK, rừng Bạch đàn urô cho sinh trưởng tốt nhất. 
Nếu chỉ sử dụng một loại phân, bón NPK tổng hợp 
có hiệu lực cao hơn so với bón phân vi sinh. Khi bón 
NPK tổng hợp, liều lượng cao có hiệu lực tốt hơn 
so với liều lượng thấp (300 g > 200 g > 100 g). Như 
vậy, có thể thấy rằng đối với đất đã bị thoái hoá, bạc 
mầu sau nhiều luân kỳ canh tác các loài cây mọc 
nhanh, việc bổ sung nhiều phân bón hơn là việc làm 
cần thiết.
4. Kết luận
Dòng Bạch đàn PNCTIV trồng trên đất feralite 
màu vàng nhạt phát triển trên đá mẹ phiến thạch 
KHOA HỌC NÔNG - LÂM NGHIỆP
Tạp chí Khoa học Công nghệ • Số 1 (1) - 2015100
sét tại Bảo Thanh, Phù Ninh, Phú Thọ tương đối 
thích hợp. Khi sử dụng phân bón tổng hợp NPK 
10:5:5 với các liều lượng phân bón khác nhau đã 
có những ảnh hưởng khác biệt về năng suất và 
chất lượng rừng. Trong 3 công thức thí nghiệm 
thì công thức CT3 với liều lượng bón lót: 500g + 
bón thúc năm 2: 300g + bón thúc năm 3: 200g thì 
sinh trưởng về đường kính, chiều cao vút ngọn, 
lượng tăng trưởng bình quân hàng năm về đường 
kính và chiều cao là lớn nhất. Đồng thời, rừng 
trồng có tỷ lệ đồng đều về đường kính và chiều 
cao là cao nhất, hệ số biến động nhỏ nhất. Kết quả 
nghiên cứu của đề tài này có thể giúp người trồng 
rừng bạch đàn xác định liều lượng phân bón NPK 
phù hợp để nâng cao năng suất và chất lượng rừng 
trồng. Đồng thời, kết quả nghiên cứu góp phần bổ 
sung và cơ sở lý luận trong các biện pháp kỹ thuật 
lâm sinh tăng năng suất và chất lượng rừng trồng 
bạch đàn.
Tài liệu tham khảo
1. Phạm Thế Dũng và Kiều Tuấn Đạt (2012), “Nghiên 
cứu nâng cao độ phì của đất nhằm nâng cao năng suất 
rừng trồng Bạch đàn ở các luân kỳ sau”, Tạp chí khoa học 
Lâm nghiệp, số 1, tr.224
2. Nguyễn Quang Đức (2006), “Sinh trưởng năng 
suất của giống Bạch đàn PN3d, GU8 và U6”, Kết quả 
nghiên cứu khoa học công nghệ giai đoạn 2000-2005, 
Viện nghiên cứu cây nguyên liệu giấy, Phú Thọ, tập 1, 
tr. 25-37
3. Nguyễn Quang Đức và Nguyễn Thái Ngọc (2006), 
“ Khảo nghiệm loài và xuất xứ Bạch đàn tại Đồng Nai”, 
Kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ giai đoạn 2000-
2005, Viện nghiên cứu cây nguyên liệu giấy, Phú Thọ, tập 
1, tr. 5-24
4. Nguyễn Thu Hương, Lê Quốc Huy và Ngô Đình 
Quế (2006), Kết quả khảo sát đánh giá và xây dựng qui 
phạm kỹ thuật bón phân cho trồng rừng sản xuất một số 
loài cây chủ yếu phục vụ chương trình 5 triệu ha rừng. 
Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.
5. Nguyễn Hoàng Nghĩa, Phạm Quang Thu, Nguyễn 
Minh Chí và Trần Xuân Hưng (2013), “Kết quả khảo 
nghiệm bổ xung kỹ thuật trồng rừng Bạch đàn tại một số 
vùng sinh thái trọng điểm”, Tạp chí khoa học Lâm nghiệp, 
số 4, tr. 3000
6. Nguyễn Đức Minh, Nguyễn Thu Hương và 
Đoàn Đình Tam (2006), Nghiên cứu, xác định nhu 
cầu dinh dưỡng khoáng (N, P, K) và chế độ nước của 
một số dòng Keo lai và Bạch đàn Urophylla ở giai đoạn 
vườn ươm và rừng non, Nhà xuất bản Nông nghiệp, 
Hà Nội.
7. Schonau, A. P. G (1985), “Basic silviculture for 
the establishment of Eucalyptus grandis”, South African 
Forestry Journal (143), pp 4-9.`
SUMMARY 
EFFECTS OF NPK FERTILIZER APPLICATION ON GROWTH AND QUALITY OF 
EUCALYPTUS CLONE PNCTIV IN PHU NINH, PHU THO
Nguyen Thi Xuan Vien1, Trieu Hoang Son2, Ha Ngoc Anh2 
1Faculty of Agriculture-Forestry-Aquaculture, Hung Vuong University 
2Institute of Woodpulp Research
The application of NPK fertiliser with different amounts for Eucalyptus clone PNCTIV has statistically 
significant different influences on growth and quality of its plantation. Among 3 experimental treatments 
(CT) for trees at 53 months old, the amount of 1000g/tree (CT3) showed a greater diameter at breast height 
(D1.3, cm) and total height (Hvn, m) in tested trees than those of the control (CT1) with the amount of 400g/
tree as currently being appplied in woodpulp plantations. Similarly, tree trunk quality in CT3 also showed 
better performance than in other treatments. 
Keywords: Eucalyptus PNCTVI, fertilizer, growth.

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_lieu_luong_phan_bon_npk_den_sinh_truong_va_cha.pdf