Ảnh hưởng của công nghệ tài chính đến an toàn hệ thống tài chính- Từ khung lý luận đến thực tiễn tại Việt Nam

Cùng với sự phát triển chung của công nghệ thông tin, các công ty công

nghệ đang đầu tư rất mạnh vào lĩnh vực tài chính, nhờ đó mà trên thị

trường các dịch vụ tài chính đã xuất hiện các công ty công nghệ tài chính.

Các công ty này hoạt động và cung cấp tất cả các dịch vụ của định chế tài

chính ngân hàng và định chế tài chính phi ngân hàng, đây là thách thức

lớn cho các nhà quản lý tài chính cũng như các định chế tài chính truyền

thống. Do công nghệ tài chính- FinTech- mới ra đời nên việc nghiên cứu

về tác động của nó chưa nhiều, chưa đầy đủ cả ở lí luận và thực tiễn, đây

chính là tính cấp thiết đặt ra việc cần có những nghiên cứu về khung đánh

giá tác động của FinTech đối với sự phát triển của các tổ chức định chế tài

chính, từ đó, có cách nhìn nhận, đánh giá thực tiễn đối với tính an toàn và

ổn định của hệ thống tài chính.

Từ khoá: Công nghệ tài chính, định chế tài chính, thị trường tài chính

pdf 13 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của công nghệ tài chính đến an toàn hệ thống tài chính- Từ khung lý luận đến thực tiễn tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của công nghệ tài chính đến an toàn hệ thống tài chính- Từ khung lý luận đến thực tiễn tại Việt Nam

Ảnh hưởng của công nghệ tài chính đến an toàn hệ thống tài chính- Từ khung lý luận đến thực tiễn tại Việt Nam
1
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 216- Tháng 5. 2020
Ảnh hưởng của công nghệ tài chính đến an toàn 
hệ thống tài chính- Từ khung lý luận đến thực tiễn 
tại Việt Nam
Trần Thị Xuân Anh
Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng
Nguyễn Thị Hoài Lê
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Ngày nhận: 20/02/2020 Ngày nhận bản sửa: 09/03/2020 Ngày duyệt đăng: 17/03/2020
Cùng với sự phát triển chung của công nghệ thông tin, các công ty công 
nghệ đang đầu tư rất mạnh vào lĩnh vực tài chính, nhờ đó mà trên thị 
trường các dịch vụ tài chính đã xuất hiện các công ty công nghệ tài chính. 
Các công ty này hoạt động và cung cấp tất cả các dịch vụ của định chế tài 
chính ngân hàng và định chế tài chính phi ngân hàng, đây là thách thức 
lớn cho các nhà quản lý tài chính cũng như các định chế tài chính truyền 
thống. Do công nghệ tài chính- FinTech- mới ra đời nên việc nghiên cứu 
về tác động của nó chưa nhiều, chưa đầy đủ cả ở lí luận và thực tiễn, đây 
chính là tính cấp thiết đặt ra việc cần có những nghiên cứu về khung đánh 
giá tác động của FinTech đối với sự phát triển của các tổ chức định chế tài 
chính, từ đó, có cách nhìn nhận, đánh giá thực tiễn đối với tính an toàn và 
ổn định của hệ thống tài chính.
Từ khoá: Công nghệ tài chính, định chế tài chính, thị trường tài chính
Impact of Fintech on the stability of Financial system - From theoretical framework to practice in 
Vietnam 
Abstract: Together with the general development of information technology, technology companies are 
investing heavily in the financial sector, whereby financial technology companies have appeared in the financial 
market. These companies operate and provide all services of both banking and financial institutions, which is 
a major challenge for key regulators and traditional financial institutions. Due to the new financial technology- 
FinTech- the study of its impact is not much, incomplete in both theory and practice, this is the urgency that 
requires the study of the framework, assess the impact of FinTech on the development of financial institutions, 
thereby, have a view on the safety and stability of the financial system.
Keywords: financial technology, financial institutions, financial market.
Anh Thi Xuan Tran, PhD.
Email: anhttx@hvnh.edu.vn
Finance Faculty, Banking Academy of Vietnam
Le Thi Hoai Nguyen, Assoc.Prof. PhD.
Email: hoaile74@gmail.com
Vietnam Academy of Social Sciences
Ảnh hưởng của công nghệ tài chính đến an toàn hệ thống tài chính- Từ khung lý luận 
đến thực tiễn tại Việt Nam
2 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020
1. Khung đánh giá ảnh hưởng của 
FinTech
Sự phát triển nhanh chóng của khoa học 
công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin 
đã tạo điều kiện cho cuộc cách mạng khoa 
học công nghệ lần thứ IV, cách mạng 4.0. 
Bối cảnh đó cùng với sự bùng nổ của hệ 
thống dữ liệu lớn (big data) đã dẫn đến sự 
ra đời một loại hình dịch vụ sáng tạo trên 
thị trường tài chính: FinTech (financial 
technology- công nghệ tài chính) cung 
cấp các dịch vụ tài chính bằng công nghệ 
cao trong nhiều lĩnh vực, sử dụng các ứng 
dụng, phần mềm hiện đại trên các thiết bị 
cá nhân như máy tính, điện thoại di động, 
máy tính bảng  Các dịch vụ tài chính 
được các công ty FinTech cung cấp rất đa 
dạng, hoàn thiện và phát triển một cách 
mạnh mẽ, bao gồm cả các dịch vụ của 
các định chế tài chính ngân hàng và phi 
ngân hàng. Chính vì lẽ đó, tác động của 
FinTech tới hệ thống tài chính nói chung 
và các định chế tài chính nói riêng là điều 
khó tránh khỏi. Điều này có thể được luận 
giải trên cơ sở tham khảo 2 khung lý luận 
cơ bản sau:
Một là, khung lý luận lợi ích- rủi ro của 
Dan J.Kim, Donal L.Ferrin và H. Raghav 
Rao (2008) được xây dựng trên cơ sở lý 
thuyết tâm lý hành vi. Theo đó, hành vi 
của con người được điều khiển bởi nhận 
thức của họ về khả năng chấp nhận, động 
cơ và thái độ đối với một sự việc cụ thể. 
Ngoài ra hành vi này còn bị chi phối bởi 
những thông tin họ thu nhận được trên thị 
trường. Tuy nhiên, những thông tin này có 
thể không đầy đủ và thiếu chính xác dẫn 
đến tâm lý lo lắng, từ đó ảnh hưởng đến 
quyết định sử dụng họ. Kết hợp giữa tâm 
lý nhận thức đầy đủ về lợi ích và những lo 
lắng liên quan đến rủi ro, Dan và các cộng 
sự (2008) cho rằng về cơ bản quyết định 
sử dụng của người tiêu dùng về một sản 
phẩm, dịch vụ mới nào ra đời đều bị chi 
phối bởi hai yếu tố trên. Nghiên cứu của 
Lue và Shim (2010) còn đưa thêm yếu tố 
niềm tin của người tiêu dùng vào khung 
lợi lích- rủi ro để đánh giá quyết định sử 
dụng của người tiêu dùng. 
Dựa vào khung lợi ích- rủi ro cảm nhận 
nêu trên có thể thấy ảnh hưởng của 
FinTech được đánh giá thông qua hành vi 
của người sử dụng trước những lợi ích và 
rủi ro tiềm tàng từ sản phẩm, dịch vụ mới 
này. Thị trường tài chính với chủ thể là 
các định chế tài chính có đặc tính là ảnh 
hưởng thông qua các cơ chế dẫn truyền có 
thể có tác động lớn hơn và mang tính hệ 
thống. 
Hai là, khung đánh giá ảnh hưởng của 
Fintech của Tổ chức Ủy thác và thanh 
toán bù trừ (DTCC- The Deposit Trust & 
Clearing Coporation, 2017), theo đó tác 
động tiềm tàng của FinTech đối với sự ổn 
định tài chính là một vấn đề có tầm quan 
trọng, đặc biệt là trong giai đoạn đầu thử 
nghiệm và phát triển sản phẩm, dịch vụ 
này. DTCC đã xây dựng khung đánh giá 
gồm 9 yếu tố dẫn truyền ảnh hưởng của 
Fintech đến ổn định hệ thống tài chính 
gồm:
Yếu tố 1: Việc cung cấp các sản phẩm 
ngân hàng cốt lõi của các công ty FinTech
Các công ty FinTech đã và đang cung ứng 
các sản phẩm ngân hàng lõi như huy động 
vốn, tín dụng, thanh toán cho khách hàng. 
Ở một mức độ nhất định, điều này sẽ làm 
đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ trên 
thị trường tiền tệ- ngân hàng. Tuy nhiên, 
về bản chất hoạt động ngân hàng cần dựa 
trên hệ thống niềm tin vững chắc từ người 
dùng, trong khi các công ty FinTech phát 
TRẦN THỊ XUÂN ANH - NGUYỄN THỊ HOÀI LÊ
3Số 216- Tháng 5. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
triển theo xu hướng phi tập trung, không 
cần sự hiện diện trực tiếp của người dùng. 
Đây vừa là ưu điểm nhưng cũng là nhược 
điểm của công ty FinTech xét dưới góc 
độ an toàn và bảo mật cho khách hàng. 
Do vậy, mặc dù cung ứng các sản phẩm 
có chức năng như ngân hàng thương mại 
(NHTM), song các công ty FinTech có xu 
hướng phát triển các dòng sản phẩm cho 
nhóm khách hàng nhỏ lẻ ở quy mô bé, hoặc 
các sản phẩm mới mà các NHTM truyền 
thống chưa có với đặc thù giảm thời gian 
giao dịch và tăng tính tiện nghi. Do đó, hiện 
nay tác động của FinTech đối rủi ro lây lan 
(Financial Contagion) thông qua kênh tín 
dụng hoặc thanh khoản có thể tương đối 
nhỏ, nhưng điều này phải được theo dõi khi 
chúng phát triển trong tương lai.
Yếu tố 2: Mức độ phân mảnh (chia nhỏ) 
liên quan đến sản phẩm FinTech
Sự phát triển của công nghệ số hóa trong 
ngành tài chính đang tạo ra những thay đổi 
mạnh mẽ tới hành vi của người tiêu dùng 
khi tiếp cận tới các sản phẩm và dịch vụ 
tài chính ở mức phí thấp hơn, thuận tiện 
hơn nhờ vào sự đa dạng trong cách thức 
thiết kế và phân phối sản phẩm của các 
công ty FinTech. Các sản phẩm được thiết 
kế phù hợp với đặc thù của từng khách 
hàng thay vì mang tính đại chúng dễ bị 
bắt chước. Sản phẩm được phân phối qua 
nhiều kênh khác nhau, giảm bớt sự hiện 
diện trực tiếp của các khách hàng khi thực 
hiện giao dịch. Tuy nhiên điều này cũng 
tiềm ẩn các nguy cơ như: rủi ro chia sẻ, 
rò rỉ thông tin khách hàng cũng như rủi ro 
từ bên thứ ba hay còn gọi là rủi ro trung 
gian/đại lý; làm mờ đi sự phân định trách 
nhiệm giữa các nhà phân phối và nhà sản 
xuất dịch vụ tài chính liên quan đến các 
vấn đề hoạt động, sự phù hợp của sản 
phẩm, trách nhiệm đối với các thiệt hại có 
thể xảy ra; mở rộng việc sử dụng các tiêu 
chuẩn dữ liệu độc quyền có thể cản trở khả 
năng tương tác, gây ra lỗi và dẫn đến một 
hệ thống tài chính kém hiệu quả.
Yếu tố 3: Tác động của FinTech đến mức 
độ tập trung và độc quyền trên thị trường 
tài chính
Dù FinTech đang phát triển nhanh chóng 
nhưng quy mô của nó trong hệ thống tài 
chính nói chung vẫn còn hạn chế ở hầu 
hết các quốc gia. Một số công ty đang 
có xu hướng tập trung hơn ở một số lĩnh 
vực dịch vụ tài chính và khu vực địa lý 
nhất định. Báo cáo của Ủy ban Ổn định 
Tài chính Mỹ (2018) cho thấy sự phát 
triển của các nhà cung cấp tín dụng mới 
(công ty FinTech) có thể dẫn đến sự gia 
tăng nhanh chóng về tầm quan trọng của 
các công ty này trong hệ thống tài chính 
vốn là “sân chơi” của những định chế tài 
chính truyền thống. Điều này sẽ làm giảm 
tính độc quyền hay mức độ tập trung của 
ngành tài chính vì các nhà cung cấp dịch 
vụ mới có thể cạnh tranh trực tiếp với các 
định chế tài chính truyền thống. Ví dụ, nền 
tảng tín dụng FinTech có thể giúp đa dạng 
hóa các nguồn vốn, do đó, làm giảm mức 
độ tập trung tín dụng trong lĩnh vực ngân 
hàng, thực tế này có thể có lợi nếu xảy ra 
tình trạng ngân hàng gặp rủi ro trong quá 
trình hoạt động. 
Yếu tố 4: Tính thay thế của dịch vụ 
FinTech
Một sản phẩm, dịch vụ được cho là có tính 
thay thế cao nếu nó có thể bị thay thế dễ 
dàng và nhanh chóng khi nhà cung cấp 
không có khả năng cung ứng. Tính thay 
thế là một những nhân tố chính trong việc 
đánh giá rủi ro hệ thống. Trong thị trường 
hoàn hảo, các dịch vụ tài chính có khả 
Ảnh hưởng của công nghệ tài chính đến an toàn hệ thống tài chính- Từ khung lý luận 
đến thực tiễn tại Việt Nam
4 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020
năng thay thế cao sẽ tạo ra rủi ro hệ thống 
thấp hơn so với các dịch vụ không có khả 
năng thay thế.
Khả năng thay thế của dịch vụ FinTech phụ 
thuộc hoàn toàn vào bối cảnh, chẳng hạn 
như tính chất của dịch vụ, môi trường cạnh 
tranh và sự dễ dàng mà người dùng dịch 
vụ có thể chuyển sang nhà cung cấp thay 
thế (hoặc dịch vụ) trong trường hợp thất 
bại. Như vậy, mức độ thay thế phải được 
đánh giá trên cơ sở từng trường hợp. Ví dụ, 
sự thất bại của Apple Pay hoặc nhà cung 
cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến có thể dễ 
dàng được thay thế bằng cách chuyển sang 
thanh toán bằng thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ. 
Mặt khác, việc chuyển đổi giữa các giải 
pháp FinTech được cung cấp dưới dạng 
dịch vụ nền tảng trực tuyến có thể mất vài 
tháng hoặc lâu hơn để thực hiện.
Yếu tố 5: Ảnh hưởng của FinTech đến sự 
kết nối tài chính
Sự kết nối của các nhà cung cấp dịch vụ tài 
chính có thể có tác động đáng kể đến sự ổn 
định tài chính. Trong hầu hết các trường 
hợp, tính liên kết giúp giảm rủi ro hệ thống 
bằng cách phân tán “căng thẳng tài chính” 
bởi nhiều định chế tài chính có liên kết với 
nhau. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, 
tính liên kết có thể trở thành một tác nhân 
khuếch tán tác động của những cú sốc tài 
chính của một chủ thể đến toàn bộ hệ thống 
tài chính. Vì vậy, việc phân tích sự phát 
triển của FinTech ảnh hưởng đến mạng 
lưới tài chính là rất quan trọng và nên được 
xem xét theo các góc độ:
Một là, sự xuất hiện của các công ty 
FinTech một mặt có thể tạo ra mạng lưới 
kết nối theo chiều rộng nhiều hơn trong hệ 
thống các định chế tài chính, mặt khác sẽ 
làm gia tăng rủi ro lây lan cũng như mức 
độ phức tạp cho hệ thống tài chính. Ngay 
cả khi các dịch vụ FinTech được thiết kế 
đặc biệt để cải thiện trải nghiệm người 
dùng và tạo hiệu quả tốt hơn, các công 
ty này vẫn tạo ra các tầng lớp trung gian 
trong việc phân phối sản phẩm, dịch vụ, 
tạo ra mắt xích vừa có tính chất bổ sung 
vừa có tính chất cạnh tranh trong hệ thống 
định chế tài chính.
Hai là, quan hệ đối tác giữa các công ty 
FinTech và các định chế tài chính khác 
ngày càng trở nên phổ biến, từ đó gia tăng 
mạng lưới kết nối theo chiều sâu trong hệ 
thống tài chính. Khi số lượng hợp đồng 
và các thỏa thuận khác giữa các công ty 
FinTech và các công ty dịch vụ tài chính 
khác tăng lên, các thỏa thuận cũng trở nên 
phức tạp hơn, rủi ro liên kết và lây lan sẽ 
có thể tăng lên. 
Ba là, một số ứng dụng FinTech có xu 
hướng thay đổi cấu trúc liên kết trung 
tâm truyền thống của mạng tài chính theo 
hướng tăng tính phi tập trung, thường liên 
quan đến rủi ro tập trung thấp hơn và khả 
năng phục hồi cao hơn.
Như đã đề cập ở trên, mức độ phân mảnh 
và khả năng thay thế cũng cần được xem 
xét khi đánh giá tác động tổng thể của 
những thay đổi do FinTech đến sự ổn định 
tài chính.
Yếu tố 6: Mức độ cạnh tranh và hợp tác 
giữa các công ty FinTech và các nhà cung 
cấp dịch vụ tài chính truyền thống
Mỗi công ty FinTech theo đuổi một chiến 
lược khi họ định vị mình trong hệ sinh thái 
tài chính. Ban đầu, thực tế diễn biến thị 
trường cho thấy những doanh nghiệp mới 
tham gia FinTech cạnh tranh với các nhà 
cung cấp dịch vụ tài chính, thường là trong 
TRẦN THỊ XUÂN ANH - NGUYỄN THỊ HOÀI LÊ
5Số 216- Tháng 5. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
một phân khúc thị trường hẹp nơi họ có 
lợi thế. Gần đây, nhiều công ty và công ty 
FinTech quyết định hợp tác với nhau, với 
tư cách là đối tác ưu tiên hoặc độc quyền 
hoặc thông qua một số hình thức thỏa 
thuận hợp tác khác. 
Áp lực cạnh tranh làm các ngân hàng có 
thể xói mòn lợi nhuận của họ, do đó, có 
khả năng làm suy giảm mức đệm vốn 
(financial buffer). Điều này có thể thúc đẩy 
các ngân hàng theo đuổi các chiến lược rủi 
ro cao hơn, dẫn đến nguy cơ khủng hoảng. 
Do đó, một môi trường nơi các công ty 
FinTech và định chế tài chính truyền 
thống hợp tác theo các thỏa thuận cùng có 
lợi có nhiều khả năng thúc đẩy sự ổn định 
tài chính hơn là một môi trường đặc trưng 
bởi sự cạnh tranh hoàn toàn.
Yếu tố 7: Mức độ phụ thuộc vào các quy 
trình ra quyết định tự động
Theo định nghĩa, các công ty FinTech áp 
dụng công nghệ tiên tiến để tự động hóa 
các quy trình dịch vụ tài chính, các quy 
trình kinh doanh được thiết kế lại, loại bỏ 
các điểm trùng lắp nhằm làm cho chúng 
nhanh hơn và hiệu quả hơn. Ngày càng 
nhiều quyết định từng đòi hỏi sự phán 
đoán, đánh giá của con người được thay 
thế bằng các thuật toán dựa trên dữ liệu, 
trí tuệ nhân tạo và robot. Sự phát triển này 
tạo ra một số thách thức và làm xuất hiện 
những rủi ro nhất định:
Một là, việc quá phụ thuộc, thậm chí phụ 
thuộc hoàn toàn vào các thuật toán dựa 
trên dữ liệu có thể dẫn đến các lỗi chưa 
từng xảy ra trong môi trường làm việc 
truyền thống do con người kiểm soát như 
trước. Hệ thống tự động tốc độ cao gây 
lan truyền các lỗi nhanh hơn và rộng hơn, 
nguy cơ dẫn truyền rủi ro vượt quá khả 
năng xử lý của con người cũng rõ rệt hơn. 
Sự cố Knight Capital năm 2012, là một ví 
dụ nổi bật của loại rủi ro này1, cụ thể là sự 
cố của hệ thống định tuyến đơn hàng được 
xác định là do việc sử dụng phần mềm 
mới đã làm rất nhiều lệnh đặt mua, bán 
chứng khoán không chính xác, dẫn đến 
khoản lỗ 440 triệu USD phát sinh trong 
vòng chưa đầy một giờ giao dịch.
Hai là, sự phức tạp của các thuật toán 
cũng dễ dẫn đến những sai sót, bất cân 
xứng thông tin và không dễ xác định được 
những tiềm ẩn rủi ro hoạt động. N ... ợp tác giữa ngân 
hàng và FinTech sẽ tạo ra sức mạnh tổng 
hợp cho thị trường dịch vụ ngân hàng, nâng 
cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt 
động cho cả hai bên. 
Theo BCBS (2018), có năm viễn cảnh có 
thể xảy ra với ngành ngân hàng. Tuy vậy, 
khả năng chỉ một viễn cảnh xảy ra là rất 
thấp. Thay vào đó, dự đoán của BCBS 
(2018) là sẽ có sự pha trộn giữa năm viễn 
cảnh ở từng thị trường khác nhau, phụ 
thuộc vào sự phát triển của công nghệ và 
mức độ phát triển của thị trường, trong 
đó có khung quản lý giám sát như sau: (i) 
Các ngân hàng hiện tại tự đổi mới thông 
qua hiện đại hóa và số hóa; (ii) Ngân hàng 
thế hệ mới (neo-bank) thay thế ngân hàng 
truyền thống: (iii) Ngân hàng kết hợp cùng 
doanh nghiệp FinTech cung cấp dịch vụ 
tài chính; (iv) Ngân hàng trở thành bên 
thứ ba cung cấp dịch vụ, nhường dịch vụ 
khách hàng trực tiếp cho cho các doanh 
nghiệp FinTech hay công ty công nghệ lớn 
như Facebook, Google, Apple và Amazon 
(gọi chung là nhóm “Big Tech”); và (v) 
Ngân hàng không còn phù hợp và biến 
mất, vì khách hàng tương tác trực tiếp với 
nhà cung cấp dịch vụ tài chính cá nhân là 
các FinTech. Khả năng này dù ít xảy ra, 
nhưng đã có những dấu hiệu như sự xuất 
hiện của các nền tảng cho vay giữa các cá 
nhân (P2P lending) cũng như các loại tiền 
mã hóa (cryptocurrencies).
(3) Thay đổi tính tuân thủ, giám sát định 
chế tài chính
FinTech có thể được sử dụng để nâng cao 
Ảnh hưởng của công nghệ tài chính đến an toàn hệ thống tài chính- Từ khung lý luận 
đến thực tiễn tại Việt Nam
10 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020
các quy trình tuân thủ tại các định chế 
tài chính. Cụ thể là, Regtech (Regulatory 
Technology) tạm hiểu là việc ứng dụng 
công nghệ để hỗ trợ tuân thủ pháp luật, 
giúp các định chế tài chính tuân thủ những 
yêu cầu điều chỉnh và theo đuổi mục 
tiêu điều chỉnh. Bao gồm, quy trình báo 
cáo, bảo vệ khách hàng, chống rửa tiền 
và tội phạm tài chính tài trợ cho khủng 
bố (AML/CFT2). Trong ngữ cảnh đó, 
Regtech sẽ cung cấp cho các định chế tài 
chính nhiều phương pháp hiệu quả nhằm 
nâng cao tính tuân thủ và quản lý rủi ro. 
Regtech có thể tạo ra những quy trình 
mới, những kênh phân phối và sản phẩm 
mới, nhiều tổ chức kinh doanh mới, giúp 
các định chế tài chính tuân thủ yêu cầu 
điều chỉnh và quản lý rủi ro một cách có 
hiệu quả và có hiệu lực. Một số doanh 
nghiệp Regtech đã đưa ra các giải pháp 
quản lý rủi ro và tuân thủ cho các định chế 
tài chính, thông qua quy trình lựa chọn và 
bổ sung trước những thay đổi mới về điều 
chỉnh. Regtech có thể xử lý hàng loạt yêu 
cầu liên quan đến báo cáo điều chỉnh, tội 
phạm tài chính, quản lý nghiệp vụ, kể cả 
an ninh mạng và chống gian lận tài chính.
Bên cạnh những lợi ích rõ ràng trên đây, 
sự phát triển của FinTech cũng kèm theo 
nhiều rủi ro tiềm tàng, tác động trực tiếp 
đến các định chế tài chính truyền thống và 
những thành viên FinTech mới tham gia 
vào lĩnh vực tài chính. Những rủi ro chính 
phát sinh cùng FinTech bao gồm rủi ro 
chiến lược, rủi ro nghiệp vụ, rủi ro mạng 
và rủi ro tuân thủ.
Về rủi ro chiến lược, xu hướng mở rộng 
dịch vụ ngân hàng từ doanh nghiệp không 
thuộc hệ thống ngân hàng và những doanh 
nghiệp FinTech lớn gây mất phần lớn 
2 Chống rửa tiền (AML: Anti-Money Laundering) và Chống 
tài trợ cho khủng bố (CFT: Counter-Financing Terrorist).
thị phần và lợi nhuận cận biên của các 
định chế truyền thống. Cùng với rủi ro 
hệ thống, rủi ro hoạt động tăng cao khi 
quy mô hệ thống được mở rộng. Sự phát 
triển của FinTech nâng cao tính tương 
tác nhưng đồng thời cũng tăng mức độ lệ 
thuộc vào hạ tầng thị trường về công nghệ 
thông tin giữa các thành viên tham gia thị 
trường, do đó, nguy cơ sự cố công nghệ 
thông tin biến thành khủng hoảng hệ thống 
có thể xẩy ra, nhất là khi dịch vụ ngân 
hàng tập trung vào một hay một vài doanh 
nghiệp. Chưa kể là sự gia nhập của những 
doanh nghiệp FinTech vào lĩnh vực ngân 
hàng làm tăng tính phức tạp hệ thống, 
trong bối cảnh hầu hết các doanh nghiệp 
FinTech mới còn thiếu kinh nghiệm về 
quản lý rủi ro về IT.
Các định chế tài chính cũng phải đối mặt 
với xu hướng gia tăng rủi ro bắt nguồn từ 
bên ngoài hệ thống do một số định chế tài 
chính tăng cường sử dụng bên thứ ba hoặc 
những đối tác FinTech khác, làm tăng 
mức độ phức tạp và giảm tính minh bạch 
của những nghiệp vụ nối đuôi nhau. Xu 
hướng sử dụng bên thứ ba hoặc những đối 
tác FinTech khác có thể làm tăng rủi ro an 
toàn dữ liệu, thông tin cá nhân, rửa tiền, an 
ninh mạng và bảo vệ khách hàng.
Các nghiên cứu lý luận cũng cho thấy, 
FinTech sẽ tăng thêm khó khăn trong việc 
đáp ứng những yêu cầu về tuân thủ và 
nghĩa vụ về AML/CFT, nhất là rủi ro tuân 
thủ liên quan đến dữ liệu riêng tư và rủi 
ro mạng. Rủi ro không tuân thủ các quy 
định về dữ liệu riêng tư có thể tăng cùng 
với sự phát triển của dữ liệu lớn xuất phát 
từ phía các doanh nghiệp Fintech trong 
quá trình cạnh tranh phát triển mạng lưới 
khách hàng trên thị trường tài chính. Rủi 
ro mạng có thể phát sinh trong mọi ngữ 
cảnh hoạt động nếu các chế tài kiểm soát 
TRẦN THỊ XUÂN ANH - NGUYỄN THỊ HOÀI LÊ
11Số 216- Tháng 5. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
không theo kịp tốc độ thay đổi của các 
hoạt động FinTech dẫn đến lỗ hổng về bảo 
mật thông tin khách hàng. Sự gia tăng các 
mối liên kết giữa các thành viên tham gia 
thị trường có thể mang lại lợi ích cho các 
ngân hàng và khách hàng, nhưng cũng có 
thể phóng đại rủi ro an ninh, làm tăng mức 
độ tổn thương cho hệ thống ngân hàng, 
đòi hỏi phải có thêm nhiều công cụ ngăn 
ngừa những vi phạm tiềm tàng. Rủi ro 
thanh khoản và chao đảo dòng vốn ngân 
hàng cũng có nguy cơ tăng lên vì sử dụng 
công nghệ mới tạo ra những cơ hội cho 
khách hàng tự động thay đổi các tài khoản 
tiết kiệm hay quỹ hỗ tương nhằm tăng thu 
lợi nhuận, điều này tác động đến mức độ 
trung thành của khách hàng và làm tăng 
bất ổn về tiền gửi, ảnh hưởng tiêu cực đến 
tính thanh khoản của ngân hàng.
Chính vì những lý do trên, các định chế tài 
chính và cơ quan giám sát sẽ tập trung mối 
quan tâm vào việc quản lý rủi ro, các chuẩn 
mực kiểm tra và bảo vệ nhằm vào những 
kênh phân phối và dịch vụ mới mà các định 
chế tài chính sẽ đưa ra thông qua các giải 
pháp FinTech; nâng cao tính an toàn, lành 
mạnh và ổn định tài chính, tăng cường thực 
hiện các chương trình giám sát, buộc các 
ngân hàng có cơ cấu quản trị và quy trình 
quản lý rủi ro hiệu quả, đảm bảo cho việc 
xác định, quản lý và theo dõi những rủi ro 
phát sinh từ việc sử dụng FinTech liên quan 
đến việc áp dụng những mô hình kinh doanh 
cũng như quy trình và sản phẩm mới.
(4) Ảnh hưởng đến ổn định của hệ thống 
tài chính
Từ những phân tích nêu trên có thể thấy 
FinTech được kỳ vọng sẽ thành cánh tay 
nối dài của ngân hàng, hỗ trợ phổ cập tài 
chính, tạo ra sức mạnh cho thị trường, 
nâng cao khả năng cạnh tranh và góp phần 
phát triển kinh tế. Tuy nhiên, sự phát triển 
và áp dụng công nghệ vào lĩnh vực ngân 
hàng có thể gây rủi ro cho khách hàng và 
cả hệ thống ngân hàng. Các khách hàng 
có thể bị đe dọa về quyền riêng tư, an toàn 
của thông tin, gián đoạn dịch vụ ngân 
hàng, hay các cách thức tiếp thị không phù 
hợp. Ngành ngân hàng có thể bị đe dọa về 
lợi nhuận, gia tăng mức độ các nhóm rủi 
ro khác trong kinh doanh, không đáp ứng 
được hay vi phạm các yêu cầu của các cơ 
quan quản lý như bảo mật thông tin khách 
hàng, chống rửa tiền, tài trợ hoạt động 
khủng bố, kết quả sự ổn định của hệ thống 
tài chính sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực là điều 
khó tránh khỏi.
2. Thực tiễn tại Việt Nam
FinTech chính thức xuất hiện tại Việt 
Nam năm 2008 bằng hoạt động thanh 
toán. Theo khảo sát của Viện Nghiên 
cứu phát triển Công nghệ ngân hàng Đại 
học Quốc gia TP HCM (VNUHCM-IBT, 
2019), hiện có hơn 154 công ty hoạt động 
trong lĩnh vực FinTech tại Việt Nam. 
Trong đó, 37 công ty hoạt động trong 
mảng thanh toán, 25 công ty hoạt động 
trong lĩnh vực cho vay; 22 công ty làm 
về Blockchain, Crypto & Remittance. Có 
đến 70% công ty FinTech ở Việt Nam là 
các công ty khởi nghiệp có vốn đầu tư đến 
từ các quốc gia phát triển như Nhật Bản, 
Mỹ, Canada, Australia, Anh, Đan Mạch, 
Pháp và các quốc gia lân cận như Trung 
Quốc, Singapore, Malaysia. Không chỉ các 
startup, các tổ chức tài chính tại Việt Nam 
cũng tham gia làn sóng FinTech. Năm 
2016, VPBank ra mắt ngân hàng số Timo, 
một mô hình quản lý tài chính cá nhân 
với tính năng tương tự ví điện tử thông 
thường, nhưng được hỗ trợ thêm khả năng 
rút tiền mặt và quẹt thẻ của ngân hàng 
truyền thống.
Ảnh hưởng của công nghệ tài chính đến an toàn hệ thống tài chính- Từ khung lý luận 
đến thực tiễn tại Việt Nam
12 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020
Nhìn chung, FinTech ở Việt Nam hiện chủ 
yếu chỉ tập trung ở ba dịch vụ: thanh toán, 
cho vay ngang hàng và huy động vốn cộng 
đồng. Vì nhiều lý do khác nhau, ở tầm vi 
mô lẫn vĩ mô, các lĩnh vực khác như dịch 
vụ quản lý tài sản, quản lý thanh khoản, 
quản lý đầu tư, bảo hiểm, dịch vụ tư vấn 
tài chính tự động vẫn đang trong quá trình 
sơ khai. VNUHCM- IBT (2019) cho rằng 
các công ty FinTech ở Việt Nam có xu 
hướng sẽ tham gia chia sẻ thị phần bán lẻ 
tiềm năng của các ngân hàng truyền thống 
khi mà hoạt động cho vay ngang hàng, ví 
điện tử, thanh toán và trả góp bằng thẻ đã 
và đang thâm nhập mạnh mẽ vào cuộc sống 
hàng ngày. Sau đó, xu hướng ngân hàng số 
trở nên phổ cập với nhiều dịch vụ mở rộng. 
Nhìn về số lượng, các công ty Việt Nam 
có số lượng tham gia FinTech còn khá ít 
so với các nước. Về chất lượng, hoạt động 
của các công ty FinTech tại Việt Nam vẫn 
còn trong giai đoạn đầu, chưa đa dạng hóa 
sản phẩm và dịch vụ, phần lớn là hoạt động 
thanh toán; đang thiếu các dịch vụ quản lý 
tài sản, quản lý thanh khoản, quản lý danh 
tính, quản lý đầu tư, quản lý rủi ro, quản lý 
kinh doanh; bảo hiểm, bảo lãnh phát hành; 
dịch vụ tư vấn tài chính tự động. 
Hệ sinh thái FinTech tại Việt Nam chưa 
có sự kết nối chặt chẽ giữa các chủ thể bao 
gồm cơ quan quản lý, các định chế tài chính, 
công ty FinTech và các doanh nghiệp khởi 
nghiệp, quỹ đầu tư, hạ tầng tài chính, viễn 
thông,... Hoạt động kết nối để cung ứng sản 
phẩm dịch vụ cho người tiêu dùng chủ yếu 
là hợp tác giữa công ty FinTech và ngân 
hàng. Tuy nhiên, sự hợp tác này vẫn còn có 
hạn chế, mới chỉ đơn thuần là cung cấp các 
dịch vụ thanh toán giản đơn, chưa cung cấp 
các dịch vụ nâng cao khác cũng như tiếp 
Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo của Ủy ban ổn định tài chính Mỹ (Financial Stability Board). (2018, June 27). Financial Stability 
Implications from Fintech.
2. BCBS (2018), Implications of fintech developments for banks and bank supervisors, truy cập https://www.bis.org/
bcbs/publ/d415.pdf
3. DTCC 2017, “Fintech and Financial stability – exploring how technological innovations could impact the safty & 
security of global markets”, truy caapj https://scholar.google.com.vn/scholar?q=FINTECH+AND+FINANCIAL+STA
BILITY&hl=en&as_sdt=0&as_vis=1&oi=scholart
4. In Lee (2016), Fintech: Ecosystem and Business Models,  org/ proceedings/vol142_2016/10.pdf
5. Kim, D.J., D.L. Ferrin, và H.R. Rao. (2008). “A trustbased consumer decision-making model in electronic 
commerce: The role of trust, perceived risk, and their antecedents”, Decision support systems. 44(2), 544-564.
6. Luo, X., H. Li, J. Zhang, và J.P. Shim. (2010). “Examining multi-dimensional trust and multifaceted risk in initial 
acceptance of emerging technologies: An empirical study of mobile banking services”, Decision support systems. 49(2), 
222-234.
7. Nguyễn Trung Anh (2019), Hệ sinh thái Fintech tại Việt Nam, Tạp chí ngân hàng, truy cập tại http://
tapchinganhang.gov.vn/he-sinh-thai-fintech-tai-viet-nam.htm
8. SECO (2017 ), Chương trình đào tạo giám đốc NHTM Việt nam 2015 – 2017
9. VNUHCM_IBT (2019), Khảo sát về hoạt động Fintech tại Việt Nam, kết quả trình bày tại Hội thảo CNTT lần thứ 
24, truy cập tại www.vietnamfintech.com.vn
10. SECO (O, 2017 ), Chương trình đào tạo giám đốc NHTM Việt Nam 2015 – 2017
11. VNUHCM_IBT (2019), Khảo sát về hoạt động Fintech tại Việt Nam, kết quả trình bày tại Hội thảo CNTT lần thứ 
24, truy cập tại www.vietnamfintech.com.vn
xem tiếp trang 20
Những điểm mới của Incoterms 2020
20 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020
bớt các nghĩa vụ so với Incoterms, vì thế, 
vẫn sẽ là một thực tế trong quá trình sử 
dụng Incoterms trong đàm phán và soạn 
thảo hợp đồng. Tuy nhiên, điều quan trọng 
là khi sử dụng biến thể của Incoterms, các 
bên cần thỏa thuận, thống nhất cách hiểu 
và quy định rõ ràng trong hợp đồng để 
tránh những tranh chấp không đáng có ■
Tài liệu tham khảo
1. Incoterms 2020 by the International Chamber of Commerce tại <https://iccwbo.org/resources-for-business/
incoterms-rules/incoterms-2020/>
2. Incoterms 2010 by the International Chamber of Commerce tại <https://iccwbo.org/resources-for-business/
incoterms-rules/incoterms-rules-2010/>
3. GS.TS. Nguyễn Văn Tiến (2010), Cẩm nang Thanh toán quốc tế & Tài trợ ngoại thương, NXB Thống kê.
4. TS. Nguyễn Thị Cẩm Thủy và cộng sự (2017), Giáo trình Giao dịch thương mại quốc tế, NXB Lao Động.
nhận, phản hồi, chia sẻ thông tin về khách 
hàng (Nguyễn Trung Anh, 2019). 
Như vậy, có thể thấy ở thời điểm hiện 
tại, hoạt động của các công ty Fintech 
cũng như các sản phẩm dịch vụ cung 
ứng của những công ty này chưa thực sự 
làm thay đổi cơ cấu doanh thu, lợi nhuận 
cũng như hoạt động của các định chế tài 
chính truyền thống, thậm chí khó có thể 
cạnh tranh được với các NHTM, CTCK 
là những tổ chức có nền tảng khách hàng, 
hoạt động và uy tín tốt trên thị trường. 
Song về mặt dài hạn mức độ ảnh hưởng 
sẽ rõ ràng hơn, do đó cần có những điều 
chỉnh về mặt pháp lý cũng như điều hành 
chính sách vĩ mô của Chính phủ nhằm hạn 
chế ảnh hưởng tiêu cực của Fitech, đặc 
biệt là đảm bảo ổn định hệ thống tài chính 
quốc gia.
3. Kết luận
Cùng với sự phát triển chung của thế giới, 
Việt Nam cũng đang trong giai đoạn tham 
gia cuộc cách mạng công nghệ 4.0 và các 
công ty công nghệ tài chính FinTech cũng 
đang manh nha hình thành và gia nhập thị 
trường dịch vụ tài chính Việt Nam. Nhờ 
ứng dụng FinTech mà xuất hiện các công 
tiếp theo trang 12
ty công nghệ tài chính hoạt động và cung 
cấp tất cả các dịch vụ của cả định chế tài 
chính ngân hàng và định chế tài chính phi 
ngân hàng truyền thống, đây là thách thức 
lớn cho các nhà quản lý chính ở Việt Nam 
về quản lý và phát triển ổn định thị trường 
tài chính cũng như là thách thức cho các 
định chế tài chính truyền thống. FinTech 
mới ra đời và đi vào hoạt động tại Việt 
Nam chưa lâu nên việc nghiên cứu về tác 
động của nó chưa nhiều, cả ở lí luận và 
thực tiễn, và đây chính là tính cấp thiết đặt 
ra việc cần có những nghiên cứu về tác 
động của FinTech đối với sự phát triển của 
các tổ chức định chế tài chính ở Việt Nam 
cũng như đối với tính an toàn và ổn định 
của hệ thống tài chính ■

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_cong_nghe_tai_chinh_den_an_toan_he_thong_tai_c.pdf