Ảnh hưởng của chính sách kế toán đến chất lượng thông tin trên Báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
TÓM TẮT
Thực trạng hiện nay, chất lượng thông tin (CLTT) trên báo cáo tài chính (BCTC) của các công ty
niêm yết (CTNY) trên thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đang đáng báo động. Tính từ
01/01/2018 đến 16/04/2018, có 540/709 CTNY công bố BCTC được kiểm toán có lợi nhuận sau
thuế chênh lệch so với số liệu của đơn vị tự báo cáo (Vietstock, 2018). CLTT trên BCTC bị chi
phối bởi chính sách kế toán (CSKT) mà doanh nghiệp (DN) lựa chọn và áp dụng, vậy CSKT ảnh
hưởng đến CLTT trên BCTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam như thế nào? đang là vấn đề
quan tâm lớn hiện nay. Bài nghiên cứu được thực hiện nhằm mục tiêu xác định những nhân tố
thuộc CSKT tác động đến CLTT trên BCTC của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán
Việt Nam, đồng thời xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này đến CLTT trên BCTC.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong bài nghiên cứu này là phương pháp hỗn hợp, bao
gồm phương pháp định tính và phương pháp định lượng. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 3 nhân
tố thuộc về CSKT tác động đến CLTT trên BCTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam, cụ thể là:
CSKT của DN dưới tác động của khung pháp lý, CSKT của DN tối đa hóa giá trị DN và CSKT của
DN không tối đa hóa giá trị DN. Trong đó, CSKT tối đa hóa giá trị DN tác động nghịch chiều đến
CLTT trên BCTC với mức tác động mạnh; CSKT không tối đa hóa giá trị DN tác động nghịch chiều
đến CLTT trên BCTC với mức tác động trung bình và CSKT dưới tác động của khung pháp lý tác
động thuận chiều đến CLTT trên BCTC với mức tác động yếu. Từ kết quả nghiên cứu thực
nghiệm, các DN có thể vận dụng nhằm điều chỉnh, cải thiện CLTT trên BCTC của đơn vị; bên cạnh
đó, cơ quan Nhà nước cũng có thể điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật phù hợp, từ
đó, giúp cải thiện CLTT trên BCTC của CTNY trên TTCK Việt Nam.
Từ khóa: Chất lượng thông tin, báo cáo tài chính, chính sách kế toán, công ty niêm yết, thị trường
chứng khoán Việt Nam.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của chính sách kế toán đến chất lượng thông tin trên Báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 30 ẢNH HƯỞNG CỦA CHÍNH SÁCH KẾ TOÁN ĐẾN CHẤT LƯỢNG THÔNG TIN TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM THE IMPACT OF ACCOUNTING POLICIES ON THE INFORMATION QUALITY IN THE LISTED COMPANIES’ FINANCIAL STATEMENTS ON VIETNAM STOCK MARKET Ngày nhận bài: 01/10/2018 Ngày chấp nhận đăng: 26/02/2019 Huỳnh Đức Lộng, Lê Uyên Phương TÓM TẮT Thực trạng hiện nay, chất lượng thông tin (CLTT) trên báo cáo tài chính (BCTC) của các công ty niêm yết (CTNY) trên thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đang đáng báo động. Tính từ 01/01/2018 đến 16/04/2018, có 540/709 CTNY công bố BCTC được kiểm toán có lợi nhuận sau thuế chênh lệch so với số liệu của đơn vị tự báo cáo (Vietstock, 2018). CLTT trên BCTC bị chi phối bởi chính sách kế toán (CSKT) mà doanh nghiệp (DN) lựa chọn và áp dụng, vậy CSKT ảnh hưởng đến CLTT trên BCTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam như thế nào? đang là vấn đề quan tâm lớn hiện nay. Bài nghiên cứu được thực hiện nhằm mục tiêu xác định những nhân tố thuộc CSKT tác động đến CLTT trên BCTC của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, đồng thời xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này đến CLTT trên BCTC. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong bài nghiên cứu này là phương pháp hỗn hợp, bao gồm phương pháp định tính và phương pháp định lượng. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 3 nhân tố thuộc về CSKT tác động đến CLTT trên BCTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam, cụ thể là: CSKT của DN dưới tác động của khung pháp lý, CSKT của DN tối đa hóa giá trị DN và CSKT của DN không tối đa hóa giá trị DN. Trong đó, CSKT tối đa hóa giá trị DN tác động nghịch chiều đến CLTT trên BCTC với mức tác động mạnh; CSKT không tối đa hóa giá trị DN tác động nghịch chiều đến CLTT trên BCTC với mức tác động trung bình và CSKT dưới tác động của khung pháp lý tác động thuận chiều đến CLTT trên BCTC với mức tác động yếu. Từ kết quả nghiên cứu thực nghiệm, các DN có thể vận dụng nhằm điều chỉnh, cải thiện CLTT trên BCTC của đơn vị; bên cạnh đó, cơ quan Nhà nước cũng có thể điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật phù hợp, từ đó, giúp cải thiện CLTT trên BCTC của CTNY trên TTCK Việt Nam. Từ khóa: Chất lượng thông tin, báo cáo tài chính, chính sách kế toán, công ty niêm yết, thị trường chứng khoán Việt Nam. ABSTRACT Nowadays, the credibility of data (CLTT) disclosed on the financial statements of listed companies on Vietnam’s Stock Market emerges as an alarming concern. From 01/01/2018 to 16/04/2018, the financial statements of 540 over 709 listed companies are revealed having difference between net income of unaudited and audited version (Vietstock, 2018). CLTT is directly affected by the Accounting Policy (CSKT) which business preliminarily has chosen and applied. Therefore, how CSKT can impact the CLTT of listed company ‘s financial statement presently attracts a major attention. This study will define which factors of CSKT affecting the information quality in the listed companies’ financial statements on Vietnam stock market, as well as how these factors impact on CLTT of financial statement. The mixed method will be used in this research, including: the qualitative research and the quantitative research. The result of this study unveils that there are 3 influencing factors in response to such issue including: accounting policies issued by the State, accounting policies selected to optimize company’s value and accounting policies selected not to optimize company’s value. In which, accounting policies selected to optimize company’s value strongly impact on the quality of financial information in opposite direction; accounting policies selected not to optimize company’s value has medium-impact on quality of financial information in opposite direction; and accounting policies issued by the State has low-impact on quality of financial information in same direction. From the result, not only businesses can adjust and improve their quality of financial statement but also the State can provide adjustment and more appropriate policy to improve the information quality in the listed companies’ financial statements on Vietnam Stock Market.. Keywords: Quality of financial information, accounting policies, listed company, Vietnam’s stock market. TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(01) - 2019 31 1. Giới thiệu BCTC là hệ thống thông tin kinh tế, tài chính của đơn vị kế toán được trình bày theo biểu mẫu quy định tại chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán (Luật kế toán số 88/2015/QH13). Mục đích của BCTC là cung cấp thông tin cho người sử dụng, do đó, CLTT trên BCTC là vấn đề mà người sử dụng BCTC quan tâm. CSKT mà DN lựa chọn và áp dụng sẽ tác động đến CLTT trên BCTC, tuy nhiên, việc lựa chọn CSKT vẫn phải tuân thủ theo khung pháp lý kế toán được Nhà nước ban hành. Theo thống kê của Vietstock, tính đến ngày 16/04/2018, đã có 709 CTNY trên TTCK Việt Nam công bố BCTC niên độ 2017, tuy nhiên, có đến 540 CTNY điều chỉnh lợi nhuận sau thuế sau khi được kiểm toán. Hệ quả từ điều chỉnh này gây ra những chênh lệch lớn đáng kể, có thể từ lãi thành lỗ hoặc ngược lại, và ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng thông tin trên BCTC của các CTNY. Hiện nay, có nhiều nghiên cứu thực nghiệm ở các nước và tại Việt Nam xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến CLTT trên BCTC, yếu tố môi trường pháp lý tác động đến CLTT trên BCTC tại các DN Việt Nam cũng đã được nghiên cứu. Theo nghiên cứu của Phạm Quốc Thuần và La Xuân Đào (2016), yếu tố môi trường pháp lý tác động rất thấp đến CLTT trên BCTC. Theo nghiên cứu của Đặng Ngọc Hùng (2016), yếu tố hệ thống văn bản pháp luật ảnh hưởng đến CSKT của DN, từ đó ảnh hưởng đến vấn đề cung cấp BCTC đảm bảo tính trung thực, hợp lý và tạo sự tin tưởng cho người sử dụng thông tin trên BCTC của DN. Mặc dù vậy, những nghiên cứu này chỉ mới xem xét một cách khái quát mà chưa cụ thể hóa CSKT theo hệ thống văn bản pháp luật ảnh hưởng như thế nào đến CLTT trên BCTC. Bên cạnh đó, cũng đã có nhiều nghiên cứu khác xem xét yếu tố (hành vi quản trị lợi nhuận, ) ảnh hưởng đến CLTT BCTC thông qua thay đổi CSKT, tuy nhiên chưa đánh giá cụ thể CSKT trong các trường hợp này tác động đến CLTT trên BCTC như thế nào. Nghiên cứu về CSKT của DN có thể dựa trên 3 quan điểm: hành vi cơ hội, hợp đồng hiệu quả và quan điểm thông tin. Phần lớn các nghiên cứu giải thích CSKT được lựa chọn đều dựa trên quan điểm cơ hội (Emanual & cộng sự, 2003). Các nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam cũng xem xét giải thích CSKT được DN lựa chọn dựa trên quan điểm cơ hội, tuy nhiên, các CSKT này chỉ được nghiên cứu trên hai khía cạnh có thể làm tăng hoặc giảm lợi nhuận xét trong ngắn hạn mà chưa đề cập đến CSKT được lựa chọn xét trên hai khía cạnh khác, đó là CSKT có thể tối đa hóa giá trị doanh nghiệp và không tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. Vì vậy việc nghiên cứu ảnh hưởng của CSKT đến CLTT trên BCTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam là cần thiết, từ đó giúp DN cũng như Nhà nước có những giải pháp phù hợp nhằm nâng cao CLTT trên BCTC của DN nói riêng và CLTT của TTCK nói chung. Mục tiêu của bài viết là: Xác định những nhân tố thuộc CSKT tác động đến CLTT trên BCTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam, xác định mức độ tác động của các nhân tố này đến CLTT trên BCTC và đề xuất khuyến nghị nhằm nâng cao CLTT trên BCTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam. Kết cấu bài báo gồm 4 phần, cụ thể gồm: (1) Tổng quan các nghiên cứu trước có liên quan và mô hình nghiên cứu đề xuất, (2) Phương pháp nghiên cứu, (3) Kết quả nghiên cứu và (4) Kết luận. Huỳnh Đức Lộng, Lê Uyên Phương, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 32 2. Tổng quan các nghiên cứu trước có liên quan và mô hình nghiên cứu đề xuất 2.1. Các nghiên cứu trên thế giới 2.1.1. Nghiên cứu về CLTT trên BCTC Có 4 phương pháp được các tác giả sử dụng nhằm đo lường CLTT trên BCTC, cụ thể là: Phương pháp sử dụng lợi nhuận làm đại diện cho CLTT trên BCTC, phương pháp này được các tác giả nghiên cứu như: Heidi (2001), Habib & Hossain (2013), v.v. Heidi (2001), nghiên cứu về những nhân tố tác động đến CLTT trên BCTC tại các DN ở Belgium. Tác giả cho rằng DN nhà nước và DN tư nhân có sự khác biệt về nhân tố tác động đến CLTT trên BCTC. Đối với DN tư nhân, tác giả xác định nhân tố thuế, mức độ phụ thuộc vào vay nợ tác động đến CLTT trên BCTC. Phương pháp đánh giá mối quan hệ giữa số liệu lợi nhuận trên BCTC với phản ứng TTCK (giá cổ phiếu) thông qua đo lường tính thích hợp của thông tin trên BCTC. Một trong số các mô hình hồi quy được sử dụng đó là mô hình hồi quy tuyến tính Ohlson (1995). Hệ số R2 càng cao, chứng tỏ khả năng giải thích của lợi nhuận và giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu với biến động của giá cổ phiếu. Garza Sánchez và cộng sự (2107) nghiên cứu về sự thay đổi trong chuẩn mực kế toán cải thiện CLTT trên BCTC của các CTNY tại Mexico. Tác giả nhận thấy, khi thay đổi từ chuẩn mực kế toán (CMKT) quốc gia sang CMKT quốc tế (IFRS), tính thích hợp của CLTT trên BCTC gia tăng. Phương pháp đo lường CLTT trên BCTC dựa vào một hoặc một vài yếu tố cụ thể của BCTC như: Mức độ công bố, tính kịp thời, v.v. (Phạm Quốc Thuần, 2016). Hongjiang Xu và cộng sự (2003) sử dụng phương pháp này để xác định những nhân tố bên trong và bên ngoài tác động đến CLTT trên BCTC của DN tại Úc. Theo tác giả, các yếu tố bên trong (yếu tố con người, yếu tố hệ thống và yếu tố tổ chức), các yếu tố bên ngoài (thay đổi công nghệ, thay đổi hệ thống văn bản pháp lý, ) có tác động đến CLTT trên BCTC. Phương pháp đo lường CLTT trên BCTC dựa vào các thuộc tính về CLTT được quy định bởi tổ chức nghề nghiệp. Phương pháp này được các tác giả nghiên cứu như: Soderstrom và Sun (2007), Braam và Beest (2013), v.v. Nghiên cứu của Soderstrom và Sun (2007) cung cấp lý thuyết nền về những nhân tố có ảnh hưởng đến CLTT trên BCTC. Kết quả nghiên cứu cho thấy, CMKT, hệ thống văn bản pháp lý, hệ thống chính trị và chính sách ưu đãi của chính phủ có tác động đến CLTT trên BCTC. Trong 4 phương pháp được đề cập, phương pháp đo lường CLTT trên BCTC dựa vào các thuộc tính về CLTT được quy định bởi tổ chức nghề nghiệp được đánh giá là phương pháp đo lường CLTT trên BCTC một cách toàn diện nhất (Phạm Quốc Thuận, 2016). 2.1.2. Nghiên cứu về CSKT Khi nghiên cứu về lựa chọn CSKT, có thể dựa trên 3 quan điểm khác nhau bao gồm quan điểm thông tin (information), quan điểm hành vi cơ hội (opportunistic behavior) và quan điểm hợp tác, hợp đồng hiệu quả (efficient contracting) (Holthausen, 1990), trong đó phần lớn các nghiên cứu giải thích CSKT được lựa chọn đều dựa trên quan điểm cơ hội (Emanual & cộng sự, 2003). Quan điểm thông tin được đề cập trong các công trình nghiên cứu như Ball và Brown (1968), Beaver (1968), v.v. Những nhà nghiên cứu này giả định thông tin không tốn nhiều chi phí và chi phí giao dịch bằng không. Quan điểm này không giải thích TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(01) - 2019 33 nhiều đến CSKT được lựa chọn mà chủ yếu xem xét tác động của CSKT đối với thuế. Quan điểm hành vi cơ hội cho rằng: xét trong mối quan hệ giữa nhà quản trị và chủ sở hữu, nhà quản trị có khuynh hướng chú trọng đến lợi ích của cá nhân hơn là lợi ích của cổ đông và các thành phần khác có liên quan; xét trong mối quan hệ giữa bên vay và bên cho vay, nhà quản trị và chủ sở hữu (bên vay) có khuynh hướng chú trọng đến lợi ích của DN hơn là lợi ích của các bên liên quan (bên cho vay). Healy (1985), Weisbach (1988), Christie & Zimmerman (1991), Holthausen và cộng sự (1995), v.v. cho rằng khi lợi nhuận kế toán là cơ sở để xác định các khoản lợi ích, tiền lương, tiền thưởng của nhà quản trị hay là cơ sở để đánh giá năng lực nhà quản trị, thì CSKT được lựa chọn thường có xu hướng làm tăng lợi nhuận kế toán của DN trong ngắn hạn. Quan điểm hợp tác, hợp đồng hiệu quả cho rằng cần có sự hợp tác, thỏa thuận một cách hiệu quả giữa các thành phần có liên quan trong DN; trong trường hợp này, nhà quản trị có khuynh hướng chú trọng đến việc làm hài hòa lợi ích của tất cả các bên có liên quan, bên ủy nhiệm và được ủy nhiệm, bên vay và cho vay.v.v., vì vậy nhà quản trị có nhiều khả năng lựa chọn CSKT nhằm giám sát, làm giảm xung đột lợi ích của tất cả các bên có liên quan và làm tăng giá trị DN trong dài hạn. Quan điểm này được đề cập trong các công trình nghiên cứu của Watts và Zimmerman (1990), Holthausen (1990), Malmquist (1990), Mian và Smith (1990).v.v. Ba quan điểm giải thích sự lựa chọn CSKT không loại trừ lẫn nhau (Holthausen, 1990), mà có thể kết hợp và tích hợp lẫn nhau, và đã có bằng chứng về sự tích hợp cho cả 2 quan điểm hành vi cơ hội và hợp tác hiệu quả (Christie & Zimmerman,1991). 2.2. Các nghiên cứu trong nước 2.2.1. Nghiên cứu về CLTT trên BCTC Tại Việt Nam có nhiều nghiên cứu về nhân tố tác động đến CLTT trên BCTC, cụ thể: Phạm Quốc Thuần và La Xuân Đào (2016) nghiên cứu những nhân tố bên ngoài tác động đến CLTT trên BCTC bao gồm thuế, tình trạng niêm yết của DN, phần mềm kế toán, kiểm toán độc lập, yếu tố chính trị và môi trường pháp lý. Trong nghiên cứu này, tác giả chỉ tập trung khám phá các nhân tố bên ngoài tác động đến CLTT trên BCTC trong các DN Việt Nam. Bài viết chưa trình bày tác động của các nhân tố bên trong DN và chỉ dừng lại ở mức độ khám phá mà chưa thực hiện phần nghiên cứu định lượng nhằm kiểm định mức độ tác động của các nhân tố được khám phá. Nguyễn Thị Phương Hồng (2016) nghiên cứu việc đánh giá CLTT trên BCTC, và kết luận có 5 nhóm nhân tố (17 nhân tố) tác động đến CLTT trên BCTC như: Nhóm nhân tố liên quan đến cơ cấu sỡ hữu, quản trị DN, hiệu quả DN, v.v. Trong nghiên cứu này, mặc dù số lượng các nhân tố được đưa vào mô hình khá nhiều (5 nhóm - 17 nhân tố), tuy nhiên, vẫn còn khá nhiều nhân tố quan trọng khác tác động đến CLTT trên BCTC chưa được tác giả đề cập (các nhân tố liên quan đến chính sách của Nhà nước, v.v). Phạm Quốc Thuần (2016) nghiên cứu các nhân tố tác động đến CLTT trên BCTC của DN Việt Nam và kết luận có 8 nhân tố có tác đến CLTT trên BCTC đó là: Hành vi quản trị lợi nhuận, áp lực thuế, chất lượng phần mềm kế toán, hỗ trợ từ phí nhà quản trị.v.v. Nghiên cứu này chỉ mới xem xét một cách khái quát mà chưa cụ thể hóa các yếu tố (ví dụ như hành vi quản trị lợi nhuận, ) ảnh hưởng đến CLTT BCTC thông qua thay đổi CSKT. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 34 2.2.2. Nghiên cứu về CSKT Tại Việt Nam có nhiều nghiên cứu liên quan đến CSKT của DN như: Đặng Ngọc Hùng (2016) cho thấy đặc điểm của DN, hệ thống văn bản pháp luật và tổ chức tư vấn nghề nghiệp tác động đến vấn đề xây dựng CSKT của DN theo CMKT và xây dựng CSKT theo CMKT c ... 6 (>0,60), hệ số tương quan biến tổng của các biến quan sát đều > 0,30. Do đó, thang đo CSKT do Nhà nước ban hành đạt chất lượng và được sử dụng trong mô hình Về nhân tố CSKT do nhà quản trị lựa chọn nhằm không tối đa hóa giá trị DN: Hệ số Alpha của thang đo này 0,750 (>0,60), hệ số tương quan biến tổng của các biến quan sát > 0,30. Do đó, thang đo đạt chất lượng và được sử dụng trong mô hình. Về nhân tố CSKT do nhà quản trị lựa chọn nhằm tối đa hóa giá trị DN: Hệ số Alpha của thang đo này 0,894 (>0,60), hệ số tương quan biến tổng của các biến quan sát >0,30. Do đó, thang đo đạt chất lượng tốt và được sử dụng trong mô hình. Về thang đo CLTT trên BCTC: Hệ số Alpha của thang đo này 0,810 (>0,60), hệ số tương quan biến tổng của các biến quan sát >0,30. Do đó, thang đo đạt chất lượng tốt và được sử dụng trong mô hình. 4.2. Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA Kết quả kiểm định KMO cho thấy, KMO là 0,743 (1> 0,743 > 0,50), vì vậy việc lựa chọn mô hình phân tích nhân tố khám phá (EFA) là phù hợp với dữ liệu thực tế. Kết quả kiểm định tương quan giữa các biến quan sát (Bartlett's Test): Giá trị Sig là 0,000 < 0,05, kết luận các biến quan sát có mối tương quan tuyến tính với từng biến độc lập. Kết quả kiểm định phương sai trích: Ta có Eigenvalues > 1, tổng phương sai trích là 69,884% > 50%, kết luận mức đô giải thích của mô hình là 69,884%, nghĩa là 69,884% thay đổi của các nhân tố được giải thích bởi các biến quan sát. Bảng 5. Kết quả ma trận xoay các nhân tố Biến Nhân tố 1 2 3 MAX3 .911 MAX4 .905 MAX1 .889 MAX2 .773 NON_MAX1 .872 NON_MAX3 .818 NON_MAX2 .782 KPLKT1 .839 KPLKT2 .808 KPLKT3 .654 (Nguồn: Tính toán của tác giả từ dữ liệu khảo sát) TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(01) - 2019 41 Kết quả ma trận xoay các nhân tố: Các biến quan sát đều có hệ số tải nhân tố (FL) > 0,55 do quy mô mẫu là 244 (100 < 244 < 350 nên FL > 0,55), nên các biến quan sát đều được xem là có ý nghĩa thực tiễn trong mô hình phân tích nhân tố khám phá EFA. Kết quả phân tích nhân tố EFA đối với biến phụ thuộc CLTT trên BCTC: Thước đo KMO là 0,777 (0,5< 0,777 < 1), vì vậy việc lựa chọn mô hình phân tích nhân tố khám phá (EFA) là phù hợp với dữ liệu thực tế. Giá trị Sig là 0,000 < 0,05, kết luận các biến quan sát có mối tương quan tuyến tính với biến phụ thuộc CLTT trên BCTC. Eigenvalues > 1, tổng phương sai trích là 61,836% > 50%, kết luận 61,836%, thay đổi của biến phụ thuộc CLTT trên BCTC được giải thích bởi các biến quan sát. 4.3. Kết quả phân tích hồi quy đa biến Bảng 6. Kết quả kiểm định hệ số hồi quy Coefficientsa Model Unstandardi- zed Coefficients Std. Coeff- icients t Sig. B Std. Error Beta 1 (Const.) 4,215 ,126 33,351 ,000 KPLKT ,119 ,023 ,197 5,161 ,000 NON_M AX -,186 ,021 -,345 -8,760 ,000 MAX -,191 ,020 -,471 -9,512 ,000 (Nguồn: Tính toán của tác giả từ dữ liệu khảo sát) Kết quả kiểm định hệ số hồi quy: Dựa vào Bảng 2, tất cả các biến độc lập đều có Sig < 0,05, vì vậy mô hình hồi quy đa biến có 1 biến phụ thuộc là CLTT trên BCTC và 3 biến độc lập là: CSKT do Nhà nước ban hành, CSKT do nhà quản trị lựa chọn với mục tiêu không tối đa hóa giá trị DN và CSKT do nhà quản trị lựa chọn với mục tiêu tối đa hóa giá trị DN, đảm bảo có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy cao. Kết quả kiểm định mức độ giải thích của mô hình: Hệ số R2 hiệu chỉnh là 0,857, cho thấy 85,7% thay đổi của biến CLTT trên BCTC được giải thích bởi 3 biến độc lập như mô hình dự kiến. Kết quả kiểm định mức độ phù hợp của mô hình- kiểm định F (Phân tích ANOVA): Giá trị Sig là 0,000 < 0,05, do đó 3 biến độc lập có tương quan tuyến tính với biến phụ thuộc là CLTT trên BCTC. Bảng 7. Kết quả kiểm định phương sai phần dư không đổi Correlations ABSRES S p ea rm an 's r h o K P L K T Correlation Coefficient -.420 Sig. (2-tailed) .481 N 244 N O N _ M A X Correlation Coefficient .241 Sig. (2-tailed) .325 N 244 M A X Correlation Coefficient .383 Sig. (2-tailed) .764 N 244 A B S R E S Correlation Coefficient 1.000 Sig. (2-tailed) . N 244 (Nguồn: Tính toán của tác giả từ dữ liệu khảo sát) Kết quả kiểm định phương sai phần dư không đổi, ta thấy: Các biến CSKT do Nhà nước ban hành, CSKT do nhà quản trị lựa chọn nhằm không tối đa hóa giá trị DN và CSKT do nhà quản trị lựa chọn nhằm tối đa hóa giá trị DN, đều có Sig.>0,05, nên kết luận các biến này đảm bảo không có hiện tượng phương sai phần dư không đổi, và được sử dụng trong mô hình. Từ kết quả phân tích hồi quy, tác giả có nhận định như sau: Phân tích hồi quy cho thấy mức độ tác động, tầm quan trọng cũng như chiều tác động của 3 biến độc lập đến CLTT trên BCTC, trong đó chỉ 1 nhân tố tác động cùng chiều đến CLTT trên BCTC là CSKT dưới tác động của khung pháp lý kế toán, 2 nhân tố còn lại (CSKT không tối đa hóa giá trị DN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 42 và CSKT tối đa hóa giá trị DN) tác động ngược chiều đến CLTT trên BCTC. Dựa vào hệ số Beta, ta thấy tầm quan trọng và mức độ tác động của các biến độc lâp, cụ thể là: Giá trị tuyệt đối Beta của CSKT do nhà quản trị lựa chọn nhằm tối đa hóa giá trị DN là 0,471 (46,5%)); CSKT do nhà quản trị lựa chọn nhằm không tối đa hóa giá trị DN là 0,345 (34,1%); CSKT do Nhà nước ban hành là 0,197 (19,4%) 5. Kết luận và khuyến nghị 5.1. Kết luận Mục tiêu của tác giả trong nghiên cứu này là nhằm xác định các nhân tố tác động và đánh giá mức độ tác động của các nhân tố thuộc về CSKT đến CLTT trên BCTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam. Kết quả nghiên cứu khẳng định có 3 nhân tố thuộc về CSKT tác động đến CLTT trên BCTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam đó là: CSKT do Nhà nước ban hành có tác động cùng chiều với CLTT trên BCTC, CSKT do nhà quản trị lựa chọn nhằm không tối đa hóa giá trị DN và CSKT do nhà quản trị lựa chọn nhằm tối đa hóa giá trị DN có tác động ngược chiều với CLTT trên BCTC. Mức độ tác động của 3 nhân tố này là: CSKT do nhà quản trị lựa chọn nhằm tối đa hóa giá trị DN là 0,471 (46,5%); CSKT do nhà quản trị lựa chọn nhằm không tối đa hóa giá trị DN là 0,345 (34,1%); CSKT do Nhà nước ban hành là 0,197 (19,4%). Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận rõ, không phải lúc nào việc lựa chọn CSKT cũng thực hiện được các mục tiêu tối đa hóa hoặc không tối đa hóa giá trị DN của nhà quản trị, và nếu có thực hiện được, tác động này cũng không thể ảnh hưởng trong thời gian dài do những quy định được ban hành bởi Nhà nước hay Tổ chức nghề nghiệp nhằm kiểm soát hành vi chi phối lợi nhuận kế toán nói riêng và CLTT nói chung trên BCTC của DN. 5.2. Khuyến nghị Từ kết quả nghiên cứu, tác giả nhận thấy xét trong 3 nhân tố, CSKT tối đa hóa giá trị DN tác động mạnh nhất đến CLTT trên BCTC. Do đó, khuyến nghị của tác giả tập trung vào nhân tố này. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề xuất một số khuyến nghị liên quan đến 2 nhân tố còn lại là CSKT không tối đa hóa giá trị DN và CSKT dưới tác động của khung pháp lý kế toán. Đối với nhân tố CSKT tối đa hóa giá trị DN Trong điều kiện kinh tế Việt Nam đang phát triển hiện nay, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phần lớn phụ thuộc vào nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng. Doanh nghiệp cần cung cấp BCTC cho các tổ chức tín dụng để xét duyệt hạn mức vay hoặc duy trì hạn mức vay (trường hợp vay tín chấp). Do đó, tình trạng các doanh nghiệp lựa chọn chính sách kế toán nhằm đạt được thỏa thuận vay sẽ dẫn đến hậu quả CLTT trên BCTC giảm đáng kể. Để nâng cao chất lượng thông tin trên BCTC, tổ chức tín dụng nên kết hợp sử dụng các thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, từ đó, giúp giảm thiểu sự phụ thuộc hoàn toàn vào thông tin trên BCTC để đưa ra quyết định cho vay. Từ đó, giúp hạn chế vấn đề DN sử dụng CSKT nhằm điều chỉnh “bức tranh DN”. Ngoài ra, nhân tố chính sách kế toán tối đa hóa giá trị DN còn được đo lường thông qua biến quan sát liên quan đến số thuế phải nộp bao gồm thuế TNDN và các loại thuế khác. Tối thiểu số thuế phải nộp là một trong những mục tiêu của doanh nghiệp trong điều kiện nền kinh tế đang gặp khó khăn như hiện nay. Có nhiều phương pháp để tối thiểu hóa số thuế phải nộp, những phương pháp đó có thể là tích cực (kiểm soát hoạt động kinh doanh đúng kế hoạch để tối thiểu hóa số thuế phải nộp, ) hoặc tiêu cực (trốn thuế, tránh thuế, ). Do đó, biện pháp kiểm soát hoạt động kinh doanh nhằm tối thiểu hóa số thuế phải nộp theo hướng tích cực nên được khuyến khích và áp dụng rộng rãi trong các TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(01) - 2019 43 doanh nghiệp; điều này sẽ góp phần gia tăng mức độ hoạt động hiệu quả của DN bằng việc tiết kiệm được nguồn tài chính sử dụng trong các lĩnh vực cần thiết, từ đó tạo ra giá trị gia tăng thực sự cho DN mà không làm ảnh hưởng đến CLTT trên BCTC của DN. Đối với nhân tố CSKT không tối đa hóa giá trị DN Nguyên nhân dẫn đến CSKT không tối đa hóa giá trị DN tập trung chủ yếu ở mâu thuẫn giữa yếu tố cá nhân của nhà quản trị và lợi ích của chủ sở hữu (cổ đông). Để giải quyết được mâu thuẫn này, cần cân bằng lợi ích của nhà quản trị và lợi ích của cổ đông trong DN. Một số khuyến nghị đưa ra cho vấn đề này bao gồm: Tỷ lệ sở hữu của nhà quản trị trong DN: Nhà quản trị sở hữu cổ phiếu của DN, có nghĩa nhà quản trị cũng đang là chủ sở hữu của DN. Một khi sự tách biệt giữa sở hữu DN và quản lý DN được thu hẹp, mâu thuẫn lợi ích giữa các bên có thể được giải quyết. Khi đó, nhà quản trị có động cơ để đưa ra những quyết định đúng đắn nhằm gia tăng giá trị của DN - cũng là mục tiêu của chủ sở hữu. Thuyên chuyển nhà quản trị: Thuyên chuyển nhà quản trị nhằm mục đích hạn chế những vấn đề tiêu cực khi nhà quản trị hành xử nhằm tối đa lợi ích cá nhân, cụ thể hạn chế hành vi lựa chọn CSKT không tối đa hóa giá trị DN. Thuyên chuyển cũng góp phần phát hiện sớm những vấn đề đang tồn tại và khắc phục hậu quả trước khi ảnh hưởng xấu đến toàn DN. Đối với nhân tố CSKT dưới tác động của khung pháp lý kế toán Cuối cùng, nhân tố CSKT dưới tác động của khung pháp lý kế toán là nhân tố tác động yếu nhất trong ba nhân tố, tuy nhiên, lại có tác động thuận chiều đến CLTT trên BCTC. Do đó, tăng cường chất lượng của khung pháp lý kế toán cũng là một trong những cách thức nhằm nâng cao CLTT trên BCTC của doanh nghiệp. Mặc dù nỗ lực của các cơ quan nhà nước trong thời gian qua là đáng ghi nhận khi ban hành CĐKT doanh nghiệp tiến gần hơn với thông lệ quốc tế, phù hợp hơn với thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, tính hệ thống của CMKT và CĐKT doanh nghiệp Việt Nam chưa cao. Do đó, nếu căn cứ theo tính pháp lý thì CĐKT Việt Nam ban hành trong các thông tư sẽ thay thế CMKT được ban hành trước đó. Điều này sẽ rất khó khăn trong quá trình áp dụng khung pháp lý kế toán để xây dựng CSKT của doanh nghiệp. Bởi vậy, đây là một trong những lý do mà các cơ quan nhà nước cần xem xét, đánh giá, chỉnh sửa, biên soạn và ban hành các CĐKT lồng ghép, tham chiếu đến CMKT cụ thể, nhằm giúp doanh nghiệp thuận lợi hơn trong quá trình xây dựng và áp dụng CSKT do nhà nước ban hành của doanh nghiệp. TÀI LIỆU THAM KHẢO Ball, 1989. The Firm as a Specialist Contracting Intermediary: Application to Accounting and Auditing. Ball, R. & P. Brown, 1968. An empirical evaluation of accounting income numbers. Journal of Accounting Research, 6, 159–178. Beaver, W. H., 1968. The information content of annual earnings announcements. Journal of Accounting Research, 6, 67–92. Braam, G. & Beest F., 2013. Conceptually-Based Financial Reporting Quality Assessment. An Empirical Analysis on Quality Differences Between UK Annual Reports and US 10-K Reports. NiCE Working Paper, 13-106. Christie & Zimmerman, 1991. Efficient vs. Opportunistic Choice of Accounting Procedures: Corporate Control Contests. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 44 Christos Tzovas, 2006. Factors influencing a firm's accounting policy decisions when tax accounting and financial accounting coincide. Managerial Auditing Journal, 21 (4), 372-386. Đặng Ngọc Hùng, 2016. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng chuẩn mực kế toán trong các doanh nghiệp Việt Nam thông qua mô hình SEM. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, 33(4), 55-63. Habib & Hossain, 2013. CEO/CFO characteristics and financial reporting quality: A review. Research in Accounting Regulation, 25 (1), 88-100. Healy, 1985. The effect of bonus schemes on accounting decisions. Journal of Accounting and Economics, 7, 85-107. Holthausen, R. W., 1990. Accounting method choice, opportunistic behavior, efficient contracting, and information perspectives. Journal of Accounting and Economics, 12, 207-218. Leftwich, R., 1983. Accounting information in private markets: Evidence from private lending agreements. The Accounting Review, 58, 23–42. Nguyễn Thanh Hiếu & Đoàn Thanh Nga, 2018. Phân tích nhân tố quyết định đến CLTT kế toán. to-quyet-dinh-den-chat-luong-thong-tin-ke-toan-131535.html. [Ngày truy cập: 1 tháng 7 năm 2018]. Nguyễn Thị Phương Hồng, 2016. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán – Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam. Luận án Tiến sĩ. Trường Đại học Kinh Tế Tp. Hồ Chí Minh. Phạm Quốc Thuần & La Xuân Đào, 2016. CLTT trên BCTC – Tác động của các nhân tố bên ngoài: Phân tích nghiên cứu tình huống tại Việt Nam. Tạp chí Phát triển KH & CN, 19(1), 61-70. Phạm Quốc Thuần, 2016. Các nhân tố tác động đến CLTT BCTC trong các doanh nghiệp tại Việt Nam. Luận án Tiến sĩ, trường Đại học Kinh Tế Tp. Hồ Chí Minh. Phí Văn Trọng, 2017. Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn chính sách kế toán và ước tính kế toán trong các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Luận án Tiến sĩ, trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Steven Young, 1998. The Determinants of Managerial Accounting Policy Choice: Further Evidence for the UK. Sweeney, 1995. Debt-covenant violiations and manager’s accounting responses. Journal of Accounting and Economics. Watts & Zimmerman, 1990b. Toward a positive theory of the determination of accounting standards. Accounting Review. Watts, R. L. & J. L. Zimmerman, 1990. Positive accounting theory: A ten year perspective. The Accounting Review, 65, 13–156. Weisbach, 1988. Outside directors and CEO turnover. Journal of Financial Economics, 20, 431-460. Whittred, G., 1987. The derived demand for consolidated financial reporting. Journal of Accounting and Economics, 9, 259–285. Xu, H., Nord, J. H, Nord, G. D. & Binshan Lin, 2003. Key issues of accounting information quality management: Australian case studies. Industrial Management & Data Systems, 103(7), 461-470.
File đính kèm:
- anh_huong_cua_chinh_sach_ke_toan_den_chat_luong_thong_tin_tr.pdf