Ảnh hưởng của chất lượng kiểm toán lên giá cổ phiếu của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Bài viết nghiên cứu ảnh hưởng của chất lượng kiểm toán lên giá cổ phiếu của các
doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam giai đoạn
2014- 2018. Kết quả từ mô hình hồi quy cho thấy, chất lượng kiểm toán có ảnh
hưởng nhất định tới giá cổ phiếu của doanh nghiệp, trong đó quy mô, danh tiếng
của công ty kiểm toán, việc thay đổi kiểm toán viên và luân chuyển các công ty kiểm
toán chính là những yếu tố đánh giá về chất lượng kiểm toán có tác động đáng kể
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của chất lượng kiểm toán lên giá cổ phiếu của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của chất lượng kiểm toán lên giá cổ phiếu của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
59 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 221- Tháng 10. 2020 Ảnh hưởng của chất lượng kiểm toán lên giá cổ phiếu của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam Nguyễn Thị Hoa Hồng Nguyễn Tiến Đạt Khoa Kế toán Kiểm toán, Học viện Ngân hàng Nguyễn Đắc Đạt Ngày nhận: 12/02/2020 Ngày nhận bản sửa: 21/04/2020 Ngày duyệt đăng: 21/07/2020 Bài viết nghiên cứu ảnh hưởng của chất lượng kiểm toán lên giá cổ phiếu của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam giai đoạn 2014- 2018. Kết quả từ mô hình hồi quy cho thấy, chất lượng kiểm toán có ảnh hưởng nhất định tới giá cổ phiếu của doanh nghiệp, trong đó quy mô, danh tiếng của công ty kiểm toán, việc thay đổi kiểm toán viên và luân chuyển các công ty kiểm toán chính là những yếu tố đánh giá về chất lượng kiểm toán có tác động đáng kể The impact of audit quality on the share price in Vietnamese listed companies Abstract: The paper examines the impact of audit quality on the share price of companies listed on the Vietnam stock market in the period of 2014- 2018. The empirical results from the regression model show that audit quality has significant effect on the firms’ share price, in which the size and reputation of the auditing firms, the change of auditors and the rotation of auditing firms that are indicators of the audit quality has an influence on the market price per share (MPS). The larger the size and reputation of the audit firms, the higher quality of services they will provide. In addition, the change of auditors as well as the audit firms will maintain the independence in audit reports, thereby helping to increase the share price. Keywords: Financial Statement, audit quality, share price, market price Hong Thi Hoa Nguyen Email: hongnth@ftu.edu.vn Foreign Trade University Dat Tien Nguyen Email: datnt@hvnh.edu.vn Accounting- Auditing faculty, Banking Academy of Vietnam Dat Dac Nguyen nguyendacdatqtqt@gmail.com Foreign Trade University Khoa Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Ngoại thương Ảnh hưởng của chất lượng kiểm toán lên giá cổ phiếu của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam 60 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 2020 tới giá cổ phiếu (hay giá thị trường trên mỗi cổ phiếu). Các công ty kiểm toán có quy mô và danh tiếng càng lớn sẽ cung cấp chất lượng dịch vụ càng cao cũng như việc thay đổi kiểm toán viên, công ty kiểm toán sẽ giữ vững được tính khách quan độc lập trong các báo cáo kiểm toán, qua đó giúp giá cổ phiếu doanh nghiệp gia tăng. Từ khóa: Báo cáo tài chính, chất lượng kiểm toán, giá cổ phiếu (giá thị trường trên mỗi cổ phiếu). 1. Đặt vấn đề Hiện nay, hoạt động kiểm toán độc lập đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động kiểm toán độc lập trong đó có hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính được xem như một công cụ cung cấp thông tin cần thiết và khách quan, trung thực, hợp lý cho việc ra quyết định của các đối tượng sử dụng thông tin báo cáo tài chính, đặc biệt ý kiến kiểm toán trong hoạt động kiểm toán độc lập giúp bảo vệ tính bền vững và ổn định của nền kinh tế. Trên thế giới, nhiều nghiên cứu về chất lượng kiểm toán đã được thực hiện với các hướng tiếp cận khác nhau. DeAngelo (1981) đánh giá chất lượng kiểm toán theo nhận thức của thị trường là khả năng phát hiện và báo cáo các sai phạm trọng yếu trong báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán. Có thể thấy rằng, mục đích chính của chức năng kiểm toán là nhằm kiểm chứng độ tin cậy trong các báo cáo tài chính, qua đó giúp các nhà đầu tư đánh giá được triển vọng của doanh nghiệp thông qua giá cổ phiếu. Nghiên cứu của Khajavi và Zare (2016) đã đưa ra hai nguyên nhân chính dẫn đến những biến động giá cổ phiếu, bao gồm các hoạt động quản lý và hệ thống kế toán. Các nhà quản lý thường cố gắng báo cáo sai lệch về thu nhập của doanh nghiệp, qua đó làm tăng giá cổ phiếu hơn giá trị thực của nó cũng như cố che giấu các thông tin xấu cho tới khi không thể ngăn chặn được nữa. Vào thời điểm đó, giá cổ phiếu sẽ phản ứng rất tiêu cực với những thông tin này (Kim và Zhang, 2015). Vì vậy, chất lượng kiểm toán sẽ giúp các nhà đầu tư ra quyết định đúng đắn, phản ánh chính xác những kỳ vọng của họ về giá cổ phiếu trong doanh nghiệp. Kiểm toán báo cáo tài chính với các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán là yêu cầu bắt buộc tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Trên thực tế, đã có một số nghiên cứu về ảnh hưởng của chất lượng kiểm toán lên giá cổ phiếu tại các thị trường chứng khoán ở các nước trên thế giới như Úc, Mỹ, Anh, Singapore hay Jordan, Tehran, Nigeria. Tuy nhiên, tại Việt Nam vấn đề này vẫn chưa được nhiều nhà nghiên cứu thực hiện. Bên cạnh đó, với một thị trường tài chính đang phát triển như Việt Nam, việc minh bạch hóa thông tin cũng như đánh giá về tính chính xác và độ tin cậy trong các thông tin tài chính được công bố của các doanh nghiệp là một vấn đề mà các nhà đầu tư đều quan tâm. Vì vậy, ảnh hưởng của chất lượng kiểm toán lên giá cổ phiếu trong các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trở thành một đề tài cần được xem xét, có ý nghĩa về cả lý luận và thực tiễn, mang đến những lợi ích đối với nghề nghiệp kiểm toán, các nhà đầu tư, ngân hàng cho vay vốn và người sử dụng với mục đích khác về giá trị thông tin của báo cáo kiểm toán. 2. Tổng quan ảnh hưởng của chất lượng kiểm toán lên giá cổ phiếu trong doanh nghiệp NGUYỄN THỊ HOA HỒNG - NGUYỄN TIẾN ĐẠT - NGUYỄN ĐẮC ĐẠT 61Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Trong Lý thuyết về người đại diện (agency theory) nghiên cứu mối quan hệ giữa bên ủy quyền và bên được ủy quyền- người đại diện (cụ thể trong một doanh nghiệp là giữa cổ đông- người ủy quyền và giám đốc điều hành- người được ủy quyền), Jensen và Meckling (1976) đã nhấn mạnh người được ủy quyền thường có nhiều thông tin hơn người ủy quyền, vì vậy chính sự bất cân xứng thông tin này sẽ ảnh hưởng rất lớn tới khả năng kiểm soát doanh nghiệp cũng như lợi ích của người ủy quyền. Vì vậy, Watts (1998) khẳng định kiểm toán được coi là một khoản phí mà người đại diện trả cho bên thứ ba nhằm đáp ứng nhu cầu của các cổ đông trong doanh nghiệp về tính xác thực và tin cậy các thông tin tài chính, qua đó bảo vệ lợi ích kinh tế của họ. Những lợi ích kinh tế mà cổ đông có được bao gồm cổ tức hàng năm và lợi nhuận từ việc tăng giá cổ phiếu. Theo Bạch Đức Hiển (2008), cổ phiếu thường có các hình thức giá trị bao gồm: Mệnh giá cổ phiếu, giá trị sổ sách, giá trị lý thuyết và giá trị thị trường. - Mệnh giá cổ phiếu (p-value) hay còn gọi là giá trị danh nghĩa là giá trị mà công ty cổ phần ấn định cho một cổ phiếu. - Giá trị sổ sách (book value) của cổ phiếu là giá trị của cổ phiếu được xác định dựa trên số liệu sổ sách kế toán của các công ty, phản ánh tính trạng vốn cổ phần tại một thời điểm nhất định. - Giá trị lý thuyết của cổ phiếu hay giá trị nội tại (intrinsic value) là giá trị thực của một cổ phiếu tại thời điểm hiện tại, được tính dựa vào cổ tức, triển vọng phát triển doanh nghiệp và lãi suất thị trường. - Giá trị thị trường (market value) hay giá thị trường là giá cả cổ phiếu trên thị trường tại một thời điểm nhất định. Giá thị trường của một cổ phiếu không phải do doanh nghiệp ấn định mà được xác định bởi giá thống nhất mà người bán sẵn sàng bán và giá cao nhất mà người mua sẵn sàng trả. Nói một cách khác, tùy theo cung cầu biến động mà giá thị trường của cổ phiếu sẽ cao hơn, thấp hơn hay bằng giá trị thực của cổ phiếu ở một thời điểm nhất định. Giá trị thị trường cũng là giá trị cổ phiếu mà các nhà đầu tư, cổ đông quan tâm nhất vì có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích kinh tế của họ. Chất lượng kế toán được đo lường bằng rất nhiều nhân tố như nhiệm kỳ kiểm toán viên, sự luân chuyển kiểm toán viên và các công ty kiểm toán, mức độ chuyên sâu của kiểm toán viên cũng như quy mô và danh tiếng của các công ty kiểm toán. Rất nhiều nghiên cứu đã tìm ra được bằng chứng cho mối quan hệ giữa chất lượng kiểm toán với giá cổ phiếu, cụ thể là giá thị trường của cổ phiếu hay chính là lợi ích kinh tế mà các cổ đông luôn quan tâm khi họ sử dụng tới công cụ kiểm toán độc lập. ○ Ảnh hưởng của nhiệm kỳ kiểm toán viên Nhiệm kỳ của kiểm toán viên là mối quan hệ hợp tác giữa công ty kiểm toán với khách hàng kiểm toán; theo đó, nhiệm kỳ của kiểm toán viên có mối tương quan nghịch đối với chất lượng kiểm toán. Điều này có thể giải thích do kéo dài nhiệm kỳ kiểm toán của kiểm toán viên đối với một khách hàng sẽ tạo ra mối quan hệ thân thiết khiến tính độc lập và khách quan của cuộc kiểm toán bị giảm, dẫn đến giảm chất lượng kiểm toán. Nghiên cứu của Callen và Fang (2011) trên các công ty niêm yết tại Mỹ giai đoạn 1980- 2008 đã tìm được bằng chứng chứng minh rằng độ dài nhiệm kỳ kiểm toán có ảnh hưởng tiêu cực đến giá cổ phiếu trong tương lai. Theo nghiên cứu này, mối quan Ảnh hưởng của chất lượng kiểm toán lên giá cổ phiếu của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam 62 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 2020 hệ thân thiết giữa khách hàng và kiểm toán viên sẽ tăng theo độ dài của nhiệm kỳ kiểm toán, do đó mặc dù phát hiện ra những sai sót trong báo cáo tài chính nhưng việc công bố sẽ bị ngăn chặn nhằm không ảnh hưởng xấu đến hình ảnh khách hàng, do đó trong tương lai giá cố phiếu sẽ bị ảnh hưởng vì tính tin cậy không được các nhà đầu tư đánh giá cao. Al-Thuneibat và cộng sự (2011) cũng cho rằng mối quan hệ của công ty kiểm toán với khách hàng có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng kiểm toán trong khi kiểm toán viên tăng thời gian kiểm toán lại ảnh hưởng xấu đến chất lượng kiểm toán. Nhiệm kỳ của kiểm toán viên tăng lên sẽ làm giảm chất lượng kiểm toán do mối quan hệ giữa khách hàng và kiểm toán viên. ○ Ảnh hưởng của mức độ chuyên sâu về từng lĩnh vực ngành nghề của kiểm toán viên Mức độ chuyên sâu về từng lĩnh vực và trình độ chuyên môn của kiểm toán viên được các nhà đầu tư đánh giá cao vì các ý kiến kiểm toán mà họ đưa ra sẽ mang tính khách quan và tin cậy hơn. Nghiên cứu của Hoti và cộng sự (2012) cho rằng ý kiến kiểm toán đến từ các kiểm toán viên có chuyên môn về lĩnh vực kinh doanh của khách hàng có ảnh hưởng đáng kể đến biến động giá cổ phiếu, bởi vì các nhà đầu tư đánh giá dựa trên ý kiến và chất lượng báo cáo kiếm toán là một nguồn thông tin đáng tin cậy về hiệu quả tài chính của công ty, nhất là khi kiểm toán viên có kiến thức về lĩnh vực của công ty được kiểm toán. Hussainey (2009) cũng chỉ ra rằng chất lượng kiểm toán đến từ các kiểm toán viên có trình độ chuyên môn cao và hiểu biết về ngành nghề khách hàng được kiểm toán có ảnh hưởng đến nhận thức của các nhà đầu tư về các hoạt động tài chính của công ty do chất lượng kiểm toán ảnh hưởng đến khả năng dự báo thu nhập trong tương lai, qua đó giúp các nhà đầu tư đưa ra được quyết định phù hợp được phản ánh trong biến động giá cổ phiếu. ○ Ảnh hưởng của quy mô và danh tiếng của công ty kiểm toán Theo Chaney và Philipich (2002), chất lượng kiểm toán gắn liền với danh tiếng của công ty kiểm toán. Các công ty kiểm toán bị giảm danh tiếng có ảnh hưởng tiêu cực đến các khách hàng dẫn đến các nhà đầu tư thường phản ứng tiêu cực đối với các công ty niêm yết được kiểm toán. Trong những trường hợp như vậy, giá cổ phiếu cho thấy sự biến động rất lớn. Khi đó, hầu hết các công ty đều muốn chuyển sang sử dụng dịch vụ của các công ty kiểm toán có quy mô lớn và uy tín hơn. Các doanh nghiệp lớn niêm yết có xu hướng chuyển đổi công ty kiểm toán nhanh hơn so với các công ty khác, vì họ không muốn chịu tổn thất về giá trị thị trường khi giá cổ phiếu của họ giảm. Mặc dù chi phí tìm kiếm công ty kiểm toán mới phát sinh khá cao nhưng sẽ làm giảm sự không chắc chắn liên quan đến giá cổ phiếu trong trường hợp phản ứng của nhà đầu tư đối với chất lượng kiểm toán. Theo nghiên cứu của DeAngelo (1981), công ty kiểm toán nào có càng nhiều khách hàng (số lượng khách hàng là một trong những chỉ tiêu đánh giá quy mô và danh tiếng của công ty kiểm toán) thì càng có khả năng sai phạm của kiểm toán viên bị phát hiện. Như vậy, quy mô (số lượng khách hàng) của công ty kiểm toán càng lớn thì họ càng bị áp lực về việc duy trì chất lượng kiểm toán. Chính việc duy trì được chất lượng kiểm toán cho khách hàng sẽ làm cho các nhà đầu tư khi đánh giá báo cáo tài chính khách hàng của họ tin cậy hơn, qua đó duy trì ổn định giá cổ phiếu NGUYỄN THỊ HOA HỒNG - NGUYỄN TIẾN ĐẠT - NGUYỄN ĐẮC ĐẠT 63Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng của công ty được kiểm toán. Bên cạnh những ảnh hưởng trên thì chất lượng kiểm toán còn được đo lường bằng các yếu tố khác như giá phí kiểm toán, độ trễ báo cáo tài chính được kiểm toán (Mohamad-Nor và cộng sự, 2010). Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu trước thì bài viết phân tích ảnh hưởng của chất lượng kiểm toán đến giá cổ phiếu của các công ty niêm yết tại Việt Nam giai đoạn 2014-2018 với kỳ vọng sẽ có mối tương quan thuận chiều giữa quy mô và danh tiếng công ty kiểm toán với giá thị trường cổ phiếu và các yếu tố nhiệm kỳ kiểm toán viên và độ trễ báo cáo tài chính được kiểm toán là tương quan ngược chiều. Các yếu tố như giá phí kiểm toán hay mức độ chuyên sâu của kiểm toán viên không được nghiên cứu sử dụng trong mô hình vì rất khó để thu thập tại Việt Nam. 3. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu 3.1. Mô tả mẫu nghiên cứu Mẫu nghiên cứu ban đầu được sử dụng trong mô hình kiểm định mức độ ảnh hưởng của chất lượng kiểm toán đến giá cổ phiếu của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam là các doanh nghiệp niêm yết hai sàn chứng khoán HOSE và HNX trong giai đoạn 2014- 2018, nhưng không bao gồm các doanh nghiệp niêm yết thuộc ngành tài chính như ngân hàng, bảo hiểm hay dịch vụ tài chính, bởi các công ty này về tính chất, hoạt động đều có sự khác biệt so với hệ thống các công ty trong các ngành còn lại. Ngoài ra, các doanh nghiệp không có đầy đủ dữ liệu theo yêu cầu chọn mẫu của phương pháp nghiên cứu (theo mô hình đề xuất tại mục 3.2 dưới đây) cũng sẽ bị loại bỏ. Nguồn dữ liệu nghiên cứu được nhóm tác giả thu thập chủ yếu từ báo cáo tài chính và các thông tin công bố khác thông qua các website và https:// www.vndirect.com.vn/. Dữ liệu mẫu cuối cùng bao gồm 117 công ty niêm yết trên hai sàn chứng khoán HNX và HOSE trong thời gian từ năm 2014 đến năm 2018, các công ty này đều có đầy đủ dữ liệu về các chỉ số cho việc kiểm định mô hình, tương đương 585 quan sát trong 5 năm. 3.2. Mô hình và phương pháp nghiên cứu ○ Mô hình nghiên cứu Nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy đa biến nhằm kiểm định ảnh h ... t số biến: giá trị trung bình của biến BIG4 là 0,078 cho thấy khá ít các công ty chọn làm mẫu được kiểm toán bởi công ty kiểm toán Big4. Có khoảng gần 86,8% các công ty được kiểm toán 3 năm liên tiếp bởi một công ty kiểm toán (biến AT). Giá trị thị trường mỗi cổ phiếu có sự chênh lệch lớn ở mức giá từ 5.400 đồng cho đến 223.000 đồng, cho thấy sự biến động về giá cổ phiếu trên TTCK là rất lớn. Thu nhập trên một cổ phiếu có giá trị thấp nhất âm, chứng tỏ trong mẫu nghiên cứu có công ty niêm yết trên thị trường có hoạt động kinh doanh không tốt. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng xem xét đến sự tương quan giữa các biến trong mô hình ở Bảng 3 dưới đây. Có thể thấy rằng, các biến độc lập đều có hệ số tương quan dương với biến phụ thuộc MPS, chỉ có biến đòn bẩy tài chính (LEV) có hệ số tương quan âm. Hệ số tương quan lớn nhất giữa biến phụ thuộc và biến độc lập là 0,77 giữa giá thị trường mỗi cổ phiếu (MPS) và triển vọng tăng trưởng của các doanh nghiệp niêm yết trong tương lai (GWTH).Kết quả kiểm định ảnh hưởng của chất lượng kiểm toán lên giá cổ phiếu của các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK Việt Nam giai đoạn 2014 - 2018 được trình bày ở Bảng 4. Kết quả kiểm định white cho thấy mô hình sử dụng phương pháp bình phương thông thường nhỏ nhất (Pooled OLS) có xảy ra hiện tượng phương sai của sai số thay đổi ở mức ý nghĩa 1%, do vậy mô hình hồi quy OLS tỏ ra không phù hợp với mô hình nghiên cứu. Theo đó, cần dùng kiểm định Hausman để so sánh giữa 2 mô hình FEM và REM chọn ra mô hình phù hợp hơn. Kết quả kiểm định Hausman thấy rằng chi2 (9) = 104,73 và Prob > chi2 = 0,000, có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Do mức ý nghĩa kiểm định Hausman nhỏ hơn 5%, mô hình hồi quy tác động cố định (FEM) là phù hợp nhất để đánh giá tác động của các biến độc lập. R2 = 0,9289 có ý nghĩa thống kê cho thấy Bảng 3. Ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình MPS BIG4 AT AFT AL GWTH SIZE LEV EPS BVPS MPS 1,000 BIG4 0,192 1,000 AT 0,031 -0,114 1,000 AFT 0,180 0,019 0,015 1,000 AL 0,050 0,251 -0,003 0,042 1,000 GWTH 0,774 0,112 0,039 0,145 0,040 1,000 SIZE 0,210 0,043 -0,103 0,491 0,069 0,155 1,000 LEV -0,201 -0,160 -0,010 0,039 0,001 -0,252 0,300 1,000 EPS 0,750 0,172 0,030 0,021 0,085 0,382 0,102 -0,065 1,000 BVPS 0,553 0,137 0,070 0,087 0,039 -0,006 0,145 -0,026 0,709 1,000 Nguồn: Nhóm tác giả tự tính toán bằng phần mềm Stata 14 Ảnh hưởng của chất lượng kiểm toán lên giá cổ phiếu của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam 68 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 2020 các biến độc lập giải thích được tới 92,89% biến độc lập trong mô hình FEM. Phương trình hồi quy được trình bày như sau: MPS i,t = -20,070 + 13,620*BIG4 i,t - 3,362*AT i,t - 4,089*AFT i,t - 0,864*AL i,t + 16,410*GWTH i,t - 0,062*SIZE i,t - 0,007*LEV i,t + 0,781*EPS i,t + 1,509*BVPS i,t + e i,t Kết quả từ Bảng 4 cũng cho thấy các biến Bảng 4. Kết quả mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của chất lượng kiểm toán lên giá cổ phiếu của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2014- 2018 MPS Hệ số hồi quy Biến độc lập Dấu kỳ vọng Pooled OLS FEM REM Hằng số -3,780 -20,070 0,071 BIG4 + 15,210(6,15)*** 13,620 (5,74)*** 11,420 (6,50)*** AT - -4,011(-2,18)** -3,362 (-1,98)** -6,145 (-2,08)*** AFT - -4,803(-1,84)* -4,089 (-1,77)* -5,016 (-1,96)*** AL - -4,670(-3,73)*** -0,864 (-0,68) -4,603 (-2,23)*** GWTH + 13,420(30,62)*** 16,410 (26,37)*** 14,540 (29,68)*** SIZE + 0,132(0,68) -0,062 (-0,16) 0,076 (-0,08) LEV - -0,003(-0,20) -0,007 (-0,32) -0,002 (0,02) EPS + 1,500(9,22)*** 0,781 (4,05)*** 0,802 (7,65)*** BVPS + 0,841(18,27)*** 1,509 (18,88)*** 0,860 (18,67)*** F- test F (9, 585) = 1090,84Prob > F = 0,000*** F (9 ,459) = 390,75 Prob > F = 0,000*** Wald chi2(9) = 6759,91 Prob > chi2 = 0,000*** R2 hiệu chỉnh 0,9438 0,9289 0,9435 Kiểm định Hausman chi2(9) = 104,73 Prob>chi2 = 0,000*** Nguồn: Nhóm tác giả tự tính toán bằng phần mềm Stata 14 Ghi chú: *, ** và *** tương ứng với các mức ý nghĩa 10%, 5% và 1% NGUYỄN THỊ HOA HỒNG - NGUYỄN TIẾN ĐẠT - NGUYỄN ĐẮC ĐẠT 69Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng đại diện cho chất lượng kiểm toán như BIG4, AT, AFT đều có tác động đến giá thị trường trên mỗi cổ phiếu, tuy nhiên nghiên cứu lại chưa chứng minh được mối quan hệ giữa độ trễ trong việc phát hành báo cáo tài chính đã kiểm toán đến giá cổ phiếu. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chưa tìm được bằng chứng cho thấy mức độ tác động của các biến kiểm soát như: Đòn bẩy tài chính (LEV), Quy mô công ty được kiểm toán (SIZE) đến việc tăng hay giảm giá thị trường mỗi cổ phiếu. Riêng đối với biến độ chậm trễ của công ty kiểm toán trong việc phát hành báo cáo kiểm toán mặc dù kết quả không có ý nghĩa thống kê nhưng hệ số thể hiện tương quan ngược chiều đồng nhất với kỳ vọng ban đầu. Điều này cho thấy việc cung cấp thông tin nhanh chậm cũng là một trong những yếu tố tác động đến việc ra quyết định của nhà đầu tư, từ đó có ảnh hưởng đến biến động giá cổ phiếu trên TTCK tại Việt Nam. ○ Biến BIG4 Biến BIG4 đại diện cho quy mô và danh tiếng của công ty kiểm toán có mối tương quan thuận chiều với biến MPS- giá thị trường cho mỗi cổ phiếu ở mức ý nghĩa 1% đúng với kì vọng dấu tương quan ban đầu của nhóm tác giả cũng như nghiên cứu của Lindberg (2001). Kết quả nghiên cứu cho thấy cứ một công ty niêm yết trên hai sàn HOSE và HNX được kiểm toán bởi một công ty Big4 thì giá cổ phiếu trên thị trường của công ty đó tăng 13,620 đơn vị. Điều này chứng minh rằng, chất lượng kiểm toán tăng đồng nghĩa với việc giá cổ phiếu sẽ tăng. Có thể thấy xét trên hai khía cạnh liên quan đến uy tín và trách nhiệm pháp lý của công ty kiểm toán thì công ty kiểm toán quy mô và danh tiếng càng lớn thì có khuynh hướng cung cấp chất lượng dịch vụ càng cao hơn. Nói cách khác, các công ty kiểm toán có quy mô và danh tiếng càng lớn thì có chất lượng kiểm toán càng cao, qua đó được các nhà đầu tư đánh giá có triển vọng và giá cổ phiếu kéo theo cũng tăng. ○ Biến AT Biến AT đại diện cho nhiệm kỳ kiểm toán viên có mối tương quan ngược chiều với biến MPS- giá thị trường mỗi cổ phiếu đồng nhất với dấu tương quan kỳ vọng ban đầu và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Nhiệm kỳ kiểm toán viên càng dài thì tính độc lập và khách quan của kiểm toán viên sẽ càng giảm và thậm chí có thể dẫn đến việc kiểm toán viên hỗ trợ khách hàng tích cực hơn trong việc áp dụng các lựa chọn kế toán mà những chính sách kế toán này không phù hợp với các chuẩn mực kế toán. Điều này có thể dẫn tới việc không phát hiện được các gian lận hoặc sai sót trọng yếu, gây ra những thiệt hại về mặt kinh tế cho các đối tượng sử dụng thông tin tài chính đã được kiểm toán, đặc biệt là các cổ đông và các nhà đầu tư. Kết quả nghiên cứu từ phương pháp FEM cho thấy cứ một kiểm toán viên được kiểm toán 3 năm liên tiếp trở lên thì giá cổ phiếu trên thị trường của công ty đó sẽ giảm 3,362 đơn vị do tương quan ngược chiều. ○ Biến AFT Biến AFT đại diện cho nhiệm kỳ của công ty kiểm toán hay chính là sự thay đổi công ty kiểm toán trong các cuộc kiểm toán từ kết quả nghiên cứu cho thấy có tương quan nghịch với giá thị trường của cổ phiếu ở mức ý nghĩa 5%. Có thể thấy, cứ một công ty kiểm toán được kiểm toán 2 năm liên tiếp cho cùng một doanh nghiệp niêm yết trên TTCK Việt Nam thì giá cổ phiếu trên thị trường của doanh nghiệp đó sẽ bị giảm Ảnh hưởng của chất lượng kiểm toán lên giá cổ phiếu của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam 70 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 2020 4,089 đơn vị. Rõ ràng rằng nếu một công ty kiểm toán được kiểm toán cho một doanh nghiệp trong nhiều năm liền có thể dẫn tới tính độc lập và khách quan của báo cáo kiểm toán bị giảm do chỉ đạo của Ban lãnh đạo cấp cao các công ty kiểm toán muốn duy trì mối quan hệ tốt với khách hàng trung thành. Mặt khác, kết quả từ mô hình cũng cho thấy các biến GWTH, EPS, BVSP đại diện cho đặc điểm của doanh nghiệp có tác động cùng chiều lên giá cổ phiếu qua biến phụ thuộc MPS ở mức ý nghĩa rất cao 1%, đúng với dấu kỳ vọng. Điều này cho thấy, triển vọng tăng trưởng công ty tốt, lợi nhuận và giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu trên mỗi cổ phiếu tăng sẽ thúc đẩy giá cổ phiếu của doanh nghiệp tăng theo. 5. Kết luận Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của chất lượng kiểm toán lên giá cổ phiếu của các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK Việt Nam trên mẫu nghiên cứu là 117 công ty niêm yết trên 2 sàn chứng khoán HNX và HOSE với 585 quan sát trong giai đoạn 2014 - 2018. Bằng việc thực hiện hồi quy theo 3 phương pháp phổ biến trên dữ liệu mẫu đã thu thập được bao gồm: hồi quy theo phương pháp bình phương thông thường nhỏ nhất (Pooled OLS); Hồi quy tác động cố định Tài liệu tham khảo 1. Al-Thuneibat, A. A., Al Issa, R. T. I. & Baker, R. A. A. (2011), ‘Do audit tenure and firm size contribute to audit quality? Empirical evidence from Jordan’, Managerial Auditing Journal, 23(1), 84-101. 2. Bạch Đức Hiển, 2008, Giáo trình Thị trường chứng khoán, NXB Tài chính, Hà Nội. 3. Callen, J. L. & Fang, X. (2011), ‘Institutional Investors and Crash Risk: Monitoring or Expropriation?’, Working paper, available at SSRN: https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=1804697. 4. Chaney, P. K. & Philipich, K. L. (2002), ‘Shredded Reputation: The Cost of Audit Failure’, Journal of Accounting Research, 40(4), 1221-1245. 5. DeAngelo, L. E. (1981), ‘Auditor size and audit quality’, Journal of Accounting and Economics, 3(3), 183-199. 6. Gumanti, T. A., Nastiti, A. S., Utami, E. S. & Manik, E. (2015), ‘Audit Quality and Earnings Management in Indonesian Initial Public Offerings’, Mediterranean Journal of Social Sciences, 6(5), 223-229. 7. Hoti, A. H., Ismajli, H., Ahmeti, S. & Dermaku, A. (2012), ‘Effects of Audit Opinion on Stock Prices: The Case of Croatia and Slovenia’, EuroEconomica, 2(31), 75-87. 8. Hussainey, K. (2009), ‘The impact of Audit Quality on Earnings Predictability’, Managerial Auditing Journal, 24(4), 340-351. 9. Jensen, M. C & Meckling, W. H. (1976), ‘Theory of the Firm: Managerial behavior, agency costs and ownership structure’, Journal of Financial Economics, 3(4), 355-375. 10. Khajavi, S. & Zare, A. (2016), ‘The effect of audit quality on stock crash risk in Tehran Stock Exchange’, International Journal of Economics and Financial Issues, 6(1), 20-25. 11. Kim, J. B. & Zhang, L. (2015), ‘Accounting conservatism and stock price crash risk: Firm-level evidence’, Contemporary Accounting Research, 32(2), 1-31. 12. Lindberg, D. L. (2001), ‘Discussion of the demand for auditor reputation across international markets for audit services’, The International Journal of Accounting, 36, 429-432. 13. Mohamad-Nor, M. N., Shafie, R. & Wan-Hussin, W. N. (2010), ‘Corporate Governance and Audit Report Lag in Malaysia’, Asian Academy of Management Journal of Accounting and Finance, 6(2), 57-84. 14. Omri, M. A. & Abdennebi, A. B. (2014), ‘Audit firm rotation and audit quality: case of the listed Tunisian firms’, International Journal of Economics and Business Research, 8(3), 245-257. 15. Ugwanta, D. O., Ugwuanyi, B. U. & Ngwa, C. U. (2018), ‘Effect of audit quality on market price of firms listed on the Nigerian stock market’, Journal of Accounting and Taxation, 10(6), 61-70. 16. Watts, R. L. (1998), ‘A review of agency problems, auditing and theory of the firm’, Journal of Law and Economics, 26(3), 567-587. 17. và https://www.vndirect.com.vn/, truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2018 xem tiếp trang 84 Chương trình giáo dục tài chính quốc gia trong bối cảnh số hoá ngành Tài chính: Kinh nghiệm và đề xuất cho Việt Nam Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 202084 doanh nghiệp khởi nghiệp’, Kỷ yếu hội thảo quốc tế, Thúc đẩy tiếp cận tài chính tại Việt Nam, Tập 1, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 21. Vietnam Fintech Report 2018, Military Bank Security (MBS). 22. World Bank (2013), Global survey on consumer protection and financial literacy. 23. World Bank’s Global Findex Data 2014; World Bank’s Global Findex Data 2017. 24. Yen Thi Hai Nguyen (2017), ‘Evaluate Financial Literacy of Vietnamese Students in Higher Education and Its Determinants- The need of Financial Education’, Conference Papers – VEAM 2017. 25. Yoshino, Nayuki, Morgan, Peter, & Wignaraja, Ganeshan (2015), ‘Financial Education in Asia: Assessment and Recommendations’, ADBI Working Paper Series No. 534. 26. Yoshino, Nayuki, Morgan, Peter, & Trinh, Q.L. (2017), ‘Financial Literacy in Japan: Determimants and Impacts’, ADBI Working Paper 796. 27. 28. https://www.youtube.com/watch?v=R55kRHo5Ba0&t=39s; 29. https://vinschool.edu.vn/news_event/vinschool-dua-giao-duc-tu-duy-tai-chinh-va-khoi-nghiep-vao-chuong-trinh- chinh-khoa-2/; 30. https://www.fintechnews.org (FEM) và hồi quy tác động ngẫu nhiên (REM) và các kiểm định để lựa chọn ra phương pháp phù hợp nhất, kết quả nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng đáng kể của chất lượng kiểm toán lên giá cổ phiếu của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam từ năm 2014 đến năm 2018. Nghiên cứu đã chỉ ra quy mô, danh tiếng của công ty kiểm toán và việc thay đổi kiểm toán viên trong các cuộc kiểm toán có ảnh hưởng lớn tới biến động giá của cổ phiếu trên TTCK tại Việt Nam được đo lường bởi chỉ số giá thị trường trên mỗi cổ phiếu (MPS). Ngoài ra, việc luân chuyển các công ty kiểm toán cũng có tác động đến giá thị trường mỗi cổ phiếu. Vì vậy, việc thay đổi kiểm toán viên thường xuyên sẽ góp phần làm giảm sự thân thiết của kiểm toán viên đối với khách hàng kiểm toán, từ đó tăng thái độ hoài nghi nghề nghiệp và tính khách quan độc lập trong số liệu của báo cáo kiểm toán, dẫn đến thông tin tài chính có chất lượng hơn cho các nhà đầu tư. Mặt khác, các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam cũng cần cân nhắc kỹ lưỡng trong việc lựa chọn các công ty kiểm toán có quy mô và uy tín lớn trên thị trường để thực hiện dịch vụ kiểm toán. Các công ty kiểm toán cần có những chính sách nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán của doanh nghiệp mình bằng cách nâng cao trình độ chuyên môn của các kiểm toán viên. Các cơ quan quản lý chức năng cũng cần đưa ra những biện pháp giám sát chặt chẽ để nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán tại Việt Nam và áp dụng các chế tài xử phạt có tính răn đe để đảm bảo tính minh bạch, công bằng trên thị trường chứng khoán. Hạn chế của nghiên cứu là chưa bao quát các nhân tố, trong đó có mức độ chuyên sâu về từng lĩnh vực ngành nghề của kiểm toán viên như một thước đo quan trọng cho chất lượng kiểm toán tới giá cổ phiếu trong các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam. Hạn chế này sẽ là gợi ý cho các hướng nghiên cứu tiếp theo trong tương lai ■ tiếp theo trang 70
File đính kèm:
- anh_huong_cua_chat_luong_kiem_toan_len_gia_co_phieu_cua_cac.pdf