Ảnh hưởng của chất lượng Báo cáo tài chính và nợ ngắn hạn đến hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (Hose)

TÓM TẮT

Mục tiêu của bài nghiên cứu là xem xét ảnh hưởng của chất lượng báo cáo tài chính và nợ ngắn hạn đối với

hiệu quả đầu tư trên một mẫu gồm 200 doanh nghiệp phi tài chính được niêm yết tại HOSE trong giai đoạn từ năm

2009-2015. Kết quả nghiên cứu cho thấy: việc tăng chất lượng báo cáo tài chính và mức nợ ngắn hạn sẽ góp phần

làm gia tăng hiệu quả đầu tư cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, bài nghiên cứu cũng tìm thấy được mối quan hệ

thay thế giữa chất lượng báo cáo tài chính và nợ ngắn hạn trong việc nâng cao hiệu quả đầu tư: doanh nghiệp sử

dụng nợ ngắn hạn ít hơn (nhiều hơn) thì mức độ tác động của chất lượng báo cáo tài chính lên hiệu quả đầu tư sẽ cao

hơn (thấp hơn).

pdf 15 trang phuongnguyen 12400
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của chất lượng Báo cáo tài chính và nợ ngắn hạn đến hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (Hose)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của chất lượng Báo cáo tài chính và nợ ngắn hạn đến hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (Hose)

Ảnh hưởng của chất lượng Báo cáo tài chính và nợ ngắn hạn đến hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (Hose)
 Hoàng Thị Phương Anh và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 58(1), 53-67 53 
ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤT LƯỢNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH 
VÀ NỢ NGẮN HẠN ĐẾN HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ CỦA 
CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT TẠI SỞ GIAO DỊCH 
CHỨNG KHOÁN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (HOSE) 
HOÀNG THỊ PHƯƠNG ANH 
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh - anhtcdn@ueh.edu.vn 
VŨ MINH HÀ 
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh - vuminhha@ueh.edu.vn 
NGUYỄN THỊ THU HỒNG 
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh - hongnguyen1059@gmail.com 
(Ngày nhận: 13/11/2017; Ngày nhận lại: 18/12/2017; Ngày duyệt đăng: 20/12/2017) 
TÓM TẮT 
Mục tiêu của bài nghiên cứu là xem xét ảnh hưởng của chất lượng báo cáo tài chính và nợ ngắn hạn đối với 
hiệu quả đầu tư trên một mẫu gồm 200 doanh nghiệp phi tài chính được niêm yết tại HOSE trong giai đoạn từ năm 
2009-2015. Kết quả nghiên cứu cho thấy: việc tăng chất lượng báo cáo tài chính và mức nợ ngắn hạn sẽ góp phần 
làm gia tăng hiệu quả đầu tư cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, bài nghiên cứu cũng tìm thấy được mối quan hệ 
thay thế giữa chất lượng báo cáo tài chính và nợ ngắn hạn trong việc nâng cao hiệu quả đầu tư: doanh nghiệp sử 
dụng nợ ngắn hạn ít hơn (nhiều hơn) thì mức độ tác động của chất lượng báo cáo tài chính lên hiệu quả đầu tư sẽ cao 
hơn (thấp hơn). 
Từ khóa: Chất lượng báo cáo tài chính; Đầu tư dưới mức; Đầu tư quá mức; Hiệu quả đầu tư; Kỳ hạn nợ. 
The impact of financial reporting quality and short – term debt on investment 
efficiency of companies listed on Ho Chi Minh City stock exchange (HOSE) 
ABSTRACT 
This paper examines the role of financial reporting quality and debt maturity (short-term debt) on investment 
efficiency of 200 listed non-financial companies on HOSE in the period 2009-2015. Our results show that the 
increase of financial reporting quality and the use of short-term debt will improve the company’s investment 
efficiency. In addition, we also find that there exists an alternative relationship between financial reporting quality 
and short-term debt in improving investment efficiency: the less (more) short-term debt company use, the higher 
(lower) impact of financial reporting on investment efficiency. 
Keywords: Debt maturity; Financial reporting quality; Investment efficiency; Over-investment; Under-
investment; 
1. Giới thiệu 
Báo cáo tài chính được coi là một công cụ 
quan trọng để làm giảm bất cân xứng thông 
tin, chi phí đại diện và các vấn đề liên quan 
(Healy và Palepu, 2001). Một bộ phận lớn tài 
liệu nghiên cứu cho thấy rằng: các doanh 
nghiệp có thể làm giảm bớt tình trạng bất cân 
xứng thông tin, vấn đề lựa chọn đối nghịch và 
rủi ro đạo đức bằng cách tăng chất lượng báo 
cáo tài chính, từ đó cho phép các nhà quản trị 
doanh nghiệp xác định được các cơ hội đầu tư 
tốt hơn, và chất lượng báo cáo tài chính tốt 
hơn làm gia tăng hiệu quả đầu tư (Bushman 
và Smith, 2001; Healy và Palepu, 2001). 
54 Hoàng Thị Phương Anh và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 58(1), 53-67 
Bên cạnh đó, một số bài nghiên cứu cũng 
cho thấy nợ ngắn hạn là một nhân tố ảnh 
hưởng đến hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp 
với lập luận rằng: việc sử dụng các khoản nợ 
ngắn hạn có thể làm giảm vấn đề bất cân 
xứng thông tin khi đứng trên cả hai quan 
điểm bên đi vay và bên cho vay (Flannery, 
1986; Berger và Udell, 1998; Ortiz-Molina và 
Penas, 2008). Như vậy các doanh nghiệp sử 
dụng nợ ngắn hạn càng nhiều thì khả năng 
tiếp cận nguồn vốn càng cao, từ đó có nhiều 
cơ hội đầu tư hiệu quả hơn. Nghiên cứu của 
Myers (1997), Childs và cộng sự (2005) đã 
chỉ ra rằng độ linh hoạt của các khoản nợ 
ngắn hạn càng cao sẽ giúp làm giảm tình 
trạng đầu tư không hiệu quả. 
Chen và cộng sự (2011) xem xét ảnh 
hưởng của chất lượng báo cáo tài chính đến 
hiệu quả đầu tư và đã kết luận rằng chất lượng 
báo cáo tài chính có ảnh hưởng đến hiệu quả 
đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân tại thị 
trường các quốc gia mới nổi. Thị trường 
chứng khoán Việt Nam cũng là một thị trường 
mới nổi thích hợp để nghiên cứu, vấn đề 
thông tin bất cân xứng ở Việt Nam với hậu 
quả là lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức là 
những tác nhân chính khiến thị trường vốn bất 
ổn và kém hiệu quả. Ngân hàng đóng vai trò 
quan trọng trong việc làm giảm các bất hoàn 
hảo của thị trường vốn (García-Marco và 
Ocana, 1999) do các khoản nợ ngắn hạn có 
thể là một nguồn thay thế hợp lý đối với 
những nhà cho vay để giám sát nhà quản lý và 
giám sát hiệu quả đầu tư. Cấu trúc kỳ hạn nợ 
của những doanh nghiệp được niêm yết tại 
Việt Nam có xu hướng thiên về nợ ngắn hạn. 
Chẳng hạn như trong nghiên cứu của Mai 
Hoàng Hạnh (2015) cho thấy tỷ lệ nợ ngắn 
hạn của các doanh nghiệp được niêm yết trên 
sàn HNX và HOSE trung bình chiếm khoảng 
82%. Trong khi đó, nợ ngắn hạn của các 
doanh nghiệp ở Mỹ chỉ chiếm khoảng 22% 
tổng nợ (Datta và cộng sự, 2005). Do đó, mục 
tiêu của bài nghiên cứu nhằm xem xét ảnh 
hưởng của chất lượng báo cáo tài chính tác 
động với mức độ như thế nào đến hiệu quả 
đầu tư khi kỳ hạn nợ thay đổi. Kết quả của bài 
nghiên cứu hy vọng sẽ tìm thấy được mối liên 
hệ tương đồng với kết quả của các nghiên cứu 
trước đây trên mẫu các doanh nghiệp được 
niêm yết tại HOSE. 
2. Tổng quan các nghiên cứu trước đây 
2.1. Hiệu quả đầu tư và chất lượng báo 
cáo tài chính (FRQ) 
Verdi (2006), Biddle và Hilary (2006), 
Chen và cộng sự (2011) thảo luận về tác động 
của chất lượng báo cáo tài chính và bảo thủ kế 
toán đến hiệu quả đầu tư. Họ kết luận rằng 
chất lượng báo cáo tài chính tốt hơn làm giảm 
lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức qua việc 
làm giảm thông tin bất cân xứng. Báo cáo tài 
chính đóng một vai trò quan trọng trong việc 
giảm thiểu cả đầu tư dưới mức và đầu tư quá 
mức. Một mặt, chất lượng báo cáo tài chính 
làm giảm tính bất cân xứng thông tin bằng 
cách cung cấp thêm thông tin để các nhà đầu 
tư đầu tư vào các dự án của doanh nghiệp, do 
đó làm giảm các lựa chọn đối nghịch 
(Bushman và Smith, 2001). Mặt khác, báo cáo 
tài chính giảm rủi ro đạo đức bằng cách tạo 
điều kiện ký kết hợp đồng và giám sát (Healy 
và Palepu, 2001). 
Biddle và cộng sự (2009) kiểm tra mối 
quan hệ giữa chất lượng báo cáo tài chính và 
hiệu quả đầu tư dựa trên mẫu bao gồm 34.791 
quan sát trong giai đoạn từ năm 1993-2005 
trên thị trường Mỹ. Kết quả cho thấy: chất 
lượng báo cáo tài chính tốt hơn làm giảm 
những quyết định đầu tư không đúng đắn và 
giảm rủi ro đạo đức. Chất lượng báo cáo tài 
chính tốt hơn sẽ làm cho mức đầu tư thực hiện 
sẽ ít khả năng đi chệch khỏi mức đầu tư dự 
kiến và ít nhạy cảm với những điều kiện kinh 
tế vĩ mô. Ngoài ra, những doanh nghiệp có xu 
hướng đầu tư dưới mức/quá mức có mối 
tương quan âm giữa chất lượng báo cáo tài 
chính và hiệu quả đầu tư. 
Chen và cộng sự (2011) kiểm tra tác động 
của chất lượng báo cáo tài chính lên hiệu quả 
đầu tư qua việc sử dụng thông tin 79 doanh 
 Hoàng Thị Phương Anh và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 58(1), 53-67 55 
nghiệp tư nhân của thị trường mới nổi được 
lấy trong giai đoạn từ năm 2002-2005. Kết 
quả cho thấy: chất lượng báo cáo tài chính có 
tương quan dương với hiệu quả đầu tư, góp 
phần làm hạn chế tình trạng đầu tư quá mức 
và đầu tư dưới mức. Chất lượng báo cáo tài 
chính tốt hơn giúp các doanh nghiệp bị ràng 
buộc về mặt tài chính đầu tư và hỗ trợ các 
doanh nghiệp đang đối diện với vấn đề đầu tư 
dưới mức. 
Wang và Hoffmire (2014) sử dụng 3.726 
quan sát doanh nghiệp trong giai đoạn từ năm 
2008-2012 ở Trung Quốc, dựa trên lý thuyết 
chi phí đại diện để kiểm tra mối quan hệ giữa 
chất lượng báo cáo tài chính và hiệu quả đầu 
tư, đồng thời phân tích hiệu ứng tương tác 
giữa chất lượng báo cáo tài chính và dòng tiền 
mặt lên hiệu quả đầu tư. Kết quả cho thấy: 
chất lượng báo cáo tài chính tương quan âm 
với cả đầu tư quá mức và đầu tư dưới mức. 
Hơn nữa, đối với những doanh nghiệp có 
dòng tiền mặt tự do càng lớn thì chất lượng 
báo cáo tài chính càng tác động mạnh hơn đến 
đầu tư quá mức. 
2.2. Hiệu quả đầu tư và kỳ hạn nợ 
Myers (1977) dựa trên lý thuyết đại diện 
để cho thấy tầm quan trọng của việc sử dụng 
kỳ hạn nợ cho quyết định đầu tư của doanh 
nghiệp. Một kỳ hạn nợ phù hợp sẽ tác động 
đến khả năng thanh toán các khoản vay dự 
kiến tương ứng với mức suy giảm trong giá trị 
tài sản. Tài sản ngắn hạn (dài hạn) nên được 
tài trợ bằng nợ ngắn hạn (dài hạn), thể hiện sự 
tương thích giữa tài sản và nguồn vốn. 
Margi (2010) nghiên cứu về các yếu tố 
xác định kỳ hạn nợ của các doanh nghiệp tư 
nhân ở Ý và đưa ra kết luận rằng các doanh 
nghiệp bị tác động bởi thông tin bất cân 
xứng sẽ lựa chọn nợ ngắn hạn và làm nổi bật 
hơn sự minh bạch thông tin bằng việc chọn 
nợ dài hạn. 
Tuy nhiên, các nghiên cứu cũng nhấn 
mạnh vai trò của kỳ hạn nợ dưới góc độ bất 
cân xứng thông tin, cho thấy rằng việc sử 
dụng các khoản nợ ngắn hạn là một cơ chế có 
thể làm giảm bớt sự bất cân xứng thông tin và 
chi phí đại diện giữa các cổ đông, trái chủ và 
các nhà quản lý. Từ quan điểm của người đi 
vay, Flannery (1986) dự đoán rằng, dưới sự 
bất cân xứng thông tin, các doanh nghiệp có 
dự án tốt sẽ thích kỳ hạn nợ ngắn hơn để 
truyền tải tín hiệu cho thị trường và giảm 
thiểu vấn đề thông tin bất cân xứng. Thông tin 
bất cân xứng cũng làm những người cho vay 
thích cho vay bằng nợ ngắn hạn hơn, bởi vì họ 
có thể giám sát hoạt động doanh nghiệp tốt 
hơn (Diamond, 1991 và 1993; Rajan, 1992). 
Một sự rút ngắn kỳ hạn nợ cho phép trái chủ 
kiểm soát các nhà quản lý tốt hơn: những 
người cho vay có thể xác định được hiệu quả 
doanh nghiệp trong giai đoạn đầu và sau đó 
họ có thể quyết định làm mới hoặc thay đổi 
các điều khoản hợp đồng (Ortiz-Molina và 
Penas, 2008). 
Các doanh nghiệp có tình hình tài chính 
vững mạnh có thể sử dụng nhiều nợ ngắn 
hạn hơn so với các doanh nghiệp có xếp 
hạng tín dụng thấp để đáp ứng nhu cầu tái 
cấp vốn và rủi ro lãi suất vay ngắn hạn 
(Guedes và Opler, 1996; Jun và Jen, 2003). 
Các doanh nghiệp có mức độ rủi ro của các 
khoản nợ cao thì nhà quản lý sẽ thực hiện cơ 
chế chuyển dịch rủi ro để tối đa hóa giá trị 
cho cổ đông, từ đó có thể dẫn đến tình trạng 
đầu tư dưới mức và quá mức cho các cơ hội 
phát triển trong tương lai. Vì vậy, kỳ hạn nợ 
cũng là một yếu tố góp phần làm giảm xung 
đột giữa cổ đông và trái chủ. 
Barclay và Smith (1995) sử dụng mẫu 
gồm 39.949 quan sát các doanh nghiệp được 
lấy từ cơ sở dữ liệu CRSP và COMPUSTAT 
trong giai đoạn từ năm 1974-1991, để xem xét 
tầm quan trọng của kỳ hạn nợ đối với hiệu 
quả đầu tư. Kết quả cho thấy rằng: những 
doanh nghiệp có nhiều cơ hội đầu tư tiềm 
năng trong tương lai sẽ sử dụng nợ ngắn hạn 
nhiều hơn để làm giảm tình trạng đầu tư dưới 
mức, và các khoản vay dài hạn sẽ có chi phí 
vay vốn cao hơn. 
Aivazian và cộng sự (2005) sử dụng 
56 Hoàng Thị Phương Anh và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 58(1), 53-67 
thông tin tài chính của 863 doanh nghiệp 
Canada trong giai đoạn từ năm 1982-1999 để 
kiểm tra tác động của đòn bẩy lên quyết định 
đầu tư của doanh nghiệp. Kết quả cho thấy 
đòn bẩy tài chính có mối tương quan âm với 
đầu tư, và ở những doanh nghiệp có cơ hội 
tăng trưởng thấp thì mối tương quan âm này 
sẽ mạnh hơn so với những doanh nghiệp có cơ 
hội tăng trưởng cao. 
2.3. Tác động của FRQ lên hiệu quả 
đầu tư khi kỳ hạn nợ thay đổi 
Gomariz và Ballesta (2014) kiểm tra vai 
trò của chất lượng báo cáo tài chính và nợ 
ngắn hạn đối với hiệu quả đầu tư qua việc sử 
dụng mẫu gồm 576 quan sát các doanh nghiệp 
của Tây Ban Nha trong giai đoạn từ năm 
1998-2008. Kết quả cho thấy chất lượng báo 
cáo tài chính sẽ làm giảm vấn đề đầu tư quá 
mức. Kỳ hạn nợ có thể cải thiện hiệu quả đầu 
tư qua việc làm giảm cả hai tình trạng đầu tư 
dưới mức và quá mức. Bên cạnh đó, bài 
nghiên cứu còn cho thấy công ty sử dụng nợ 
ngắn hạn ít hơn thì tác động của chất lượng 
báo cáo tài chính lên hiệu quả đầu tư sẽ cao 
hơn và ngược lại. 
Mai Hoàng Hạnh (2015) thực hiện nghiên 
cứu trên một mẫu các doanh nghiệp được 
niêm yết trên hai sở giao dịch chứng khoán 
HSX và HNX giai đoạn từ năm 2009-2013. 
Kết quả cho thấy rằng việc tăng chất lượng 
báo cáo tài chính và sử dụng nợ ngắn hạn sẽ 
góp phần làm gia tăng hiệu quả đầu tư cho các 
doanh nghiệp, hạn chế cả tình trạng đầu tư 
dưới mức và đầu tư quá mức, đồng thời tìm 
thấy mối quan hệ thay thế giữa chất lượng báo 
cáo tài chính và nợ ngắn hạn trong việc nâng 
cao hiệu quả đầu tư. 
3. Phương pháp nghiên cứu 
3.1. Mô tả dữ liệu 
Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu của 200 
doanh nghiệp phi tài chính được niêm yết trên 
HOSE trong giai đoạn từ năm 2009-2015. 
Nguồn dữ liệu được lấy từ cơ sở dữ lịêu 
Datastream của Thomson Reuters. 
3.2. Mô tả biến 
3.2.1. Đo lường biến hiệu quả đầu tư 
(InvEff i,t) 
Một doanh nghiệp được gọi là hiệu quả 
về mặt đầu tư khi lựa chọn thực hiện tất cả các 
dự án có NPV dương (Modares và Hesarzade, 
2008). Liên quan đến cơ hội đầu tư, đầu tư 
không hiệu quả bao gồm việc lựa chọn những 
dự án có NPV dương trong trường hợp không 
có lựa chọn đối nghịch hay chi phí đại diện 
(đầu tư dưới mức). Ngoài ra, đầu tư không 
hiệu quả cũng bao gồm việc lựa chọn những 
dự án có NPV âm (đầu tư quá mức) (Crotty, 
1992). Đầu tư dự kiến là số tiền đầu tư, là các 
cơ hội tăng trưởng (Modares và Hesarzade, 
2008). Cụ thể, hiệu quả đầu tư sẽ tồn tại khi 
không có sai lệch so với mức đầu tư dự kiến. 
Theo Biddle và cộng sự (2009), Gomariz 
và Ballesta (2014) để ước tính mức đầu tư dự 
kiến cho doanh nghiệp i trong năm t bằng việc 
xác định một mô hình ước tính mức độ đầu tư 
dựa trên các cơ hội tăng trưởng (đo bằng tốc 
độ tăng trưởng doanh thu) như sau: 
 (Mô hình 1) 
Phần dư thu được từ mô hình 1 sẽ phản 
ánh mức sai lệch so với mức đầu tư dự kiến 
và đại diện cho sự không hiệu quả về mặt đầu 
tư của doanh nghiệp. Một phần dư dương có 
nghĩa rằng doanh nghiệp đang đầu tư ở mức 
cao hơn so với mức tăng trưởng doanh thu dự 
kiến, đại diện cho kịch bản đầu tư quá mức. 
Ngược lại, một phần dư âm giả định rằng đầu 
tư thực là thấp hơn so với mức dự kiến, vì vậy 
nó sẽ đại diện cho một kịch bản đầu tư dưới 
mức. Biến phụ thuộc trong bài nghiên cứu sẽ 
là giá trị tuyệt đối của phần dư trong mô hình 
nhân với -1, do đó, một giá trị InvEff i, t cao 
thể hiện hiệu quả đầu tư cao (Gomariz và 
Balsta, 2014). 
 Hoàng Thị Phương Anh và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 58(1), 53-67 57 
Bảng 1 
Bảng mô tả biến phụ thuộc 
Tên biến Định nghĩa Cách tính 
Investment 
Tổng mức đầu tư của DN i 
trong năm t 
(gia tăng ròng của tài sản hữu hình và vô hình)/ 
tổng tài sản năm t-1. 
SalesGrowth 
% thay đổi của doanh thu từ 
năm t- 2 đến t-1 
(Doanh thu năm t-1 – doanh thu năm t-2)/ doanh 
thu năm t-2 
Underinvest Đầu tư dưới mức Phần dư âm trong mô hình 1 
Overinvest Đầu tư quá mức Phần dư dương trong mô hình 1* (-1) 
3.2.2. Đo lường biến chất lượng báo cá ... 57** -0.06665* 0.01293* 0.01415** 0.01381* 
LnAge 0,11229*** 0,11236*** 0,10297** -0,00865 -0,00926 -0,00809 
Tang -0,25134*** -0,25497*** -0,25455*** 0,05004 0,03874 0,04206 
StdCFO -0,22427* -0,22385* -0,11620 0,02772 0,05462 0,04234 
StdSales 0,00655 0,00130 0,00663 0,00213 0,01065 0,00896 
Qtobin -0,01002 -0,00568 -0,00624 0,00059 0,00281 0,00188 
Z 0,08824* 0,08627** 0,08178* -0,00778** -0,00852*** -0,00842*** 
CFO_ATA 0,22187*** 0,22112*** 0,20082*** 0,01636 0,01605 0,01580 
Opercycle -0,00020 -0,00025** -0,00023** 0,00001 0,00001* 0,00001* 
Loss -0,07962 -0,08177 -0,07783 -0,00074 -0,00204 -0,00193 
Intercept 0,71528 0,79614 0,62095 -0,23937 -0,25396 -0,25018 
Industry dummies Yes Yes Yes Yes Yes Yes 
Số quan sát 411 411 411 989 989 989 
R-squared 0,1072 0,1017 0,1143 0,0263 0,0421 0,0346 
* p<0.1; ** p<0.05; *** p<0.01. 
Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp 
Trong trường hợp đầu tư quá mức, tất cả 
các hệ số của biến đại diện FRQ đều dương 
và có ý nghĩa thống kê cho thấy chất lượng 
báo cáo tài chính tốt hơn đóng vai trò làm 
giảm tình trạng đầu tư quá mức, đây là một 
phương pháp giúp doanh nghiệp giảm mức 
đầu tư của họ và hướng về mức đầu tư tối 
ưu. Phát hiện này ủng hộ quan điểm cho 
rằng chất lượng báo cáo tài chính tốt hơn 
giúp cho nhà quản lý kiểm soát được tình 
trạng đầu tư quá mức để giành quyền kiểm 
soát cổ đông và trái chủ. Tuy nhiên, trong 
trường hợp đầu tư dưới mức, chất lượng báo 
cáo tài chính không có tác động đáng kể 
trong việc làm gia tăng hiệu quả đầu tư, cho 
thấy rằng những doanh nghiệp có mức đầu 
tư thấp hơn mức dự kiến thì không hiệu quả 
trong việc tăng mức đầu tư. Liên quan đến 
nợ ngắn hạn, nhìn chung, nợ ngắn hạn thấp 
hơn góp phần cải thiện hiệu quả đầu tư qua 
64 Hoàng Thị Phương Anh và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 58(1), 53-67 
việc làm giảm cả 2 tình trạng đầu tư quá 
mức và đầu tư dưới mức. Kết quả nghiên 
cứu này thì phù hợp với nghiên cứu của 
Childs và cộng sự (2005), Gomariz và 
Ballesta (2014). Do sự linh hoạt cao hơn của 
các khoản nợ ngắn hạn sẽ làm giảm xung đột 
giữa trái chủ và cổ đông, từ đó làm giảm 
việc đầu tư quá mức và đầu tư dưới mức 
(Jensen, 1986; Childs và cộng sự, 2005). 
4.4. Xem xét hiệu ứng tương tác giữa 
chất lượng báo cáo tài chính và nợ ngắn hạn 
trong việc nâng cao hiệu quả đầu tư 
Bảng 7 trình bày kết quả hồi quy bao gồm 
hiệu ứng tương tác giữa thước đo tổng hợp 
của FRQ (Aggreg) và biến giả DumSTDebt. 
Bài nghiên cứu sử dụng kiểm định F-test để 
kiểm định sự phù hợp giữa mô hình Pools và 
FEM, kiểm định Breusch-Pagan để kiểm định 
sự phù hợp giữa mô hình Pools và REM, kiểm 
định Hausman để kiểm định sự phù hợp giữa 
mô hình FEM và REM. Kết quả cho thấy mô 
hình FEM là phù hợp nhất. 
Bảng 7 
Kết quả hồi quy kiểm tra hiệu ứng tương tác giữa FRQ và kỳ hạn nợ trong mối quan hệ với hiệu 
quả đầu tư 
 InvEff Overinvest Underinvest 
FRQ 0,11267** 0,24096** 0,00989 
STDebt 0,07609*** 0,22076* 0,01846* 
FRQ*DumSTDebt -0,00003* -0,00007 0,00001 
LnSales 0,00218 -0,06963* 0,01388* 
LnAge 0,00697 0,10383** -0,00814 
Tang -0,04459*** -0,25699*** 0,04231 
StdCFO -0,00497 -0,13439 0,04112 
StdSales -0,00629 -0,00023 0,00904 
Qtobin -0,00276 -0,00499 0,00182 
Z 0,00608** 0,08142* -0,00851*** 
CFO_ATA 0,02763 0,19257*** 0,01575 
Opercycle 0,00001 -0,00023** 0,00001* 
Loss -0,01508 -0,08495* -0,00195 
Intercept -0,13496 0,65300 -0,24905 
Industry dummies Yes Yes Yes 
Số quan sát 1400 411 989 
R-squared 0,0801 0,1178 0,0346 
* p<0.1; ** p<0.05; *** p<0.01. 
 Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp. 
 Hoàng Thị Phương Anh và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 58(1), 53-67 65 
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, cả chất 
lượng báo cáo tài chính và nợ ngắn hạn đều có 
mối tương quan dương và có ý nghĩa thống kê 
đối với hiệu quả đầu tư. Đối với những doanh 
nghiệp có mức nợ ngắn hạn thấp, hệ số hồi 
quy của FRQ là 0,113 (β1), trong khi đó đối 
với những doanh nghiệp có mức nợ ngắn hạn 
cao hơn, tác động của FRQ lên hiệu quả đầu 
tư là thấp hơn (β3<0), và tác động này được 
thể hiện bởi hệ số (β1 + β3). Vì thế, doanh 
nghiệp sử dụng nợ ngắn hạn ít hơn (nhiều 
hơn) thì mức độ tác động của chất lượng báo 
cáo tài chính lên hiệu quả đầu tư cao hơn 
(thấp hơn). Phát hiện này cho thấy rằng FRQ 
và STDebt có mối quan hệ thay thế trong việc 
cải thiện hiệu quả đầu tư: Một doanh nghiệp 
làm giảm tình trạng đầu tư không hiệu quả 
bằng việc chuẩn bị thông tin tài chính với chất 
lượng tốt hoặc bằng việc sử dụng nợ ngắn 
hạn. Phát hiện này phù hợp với lập luận của 
Gomariz và Ballesta (2014) khi cho rằng FRQ 
và STDebt có cơ chế thay thế trong việc nâng 
cao hiệu quả đầu tư. 
Xét 2 trường hợp đầu tư quá mức và đầu 
tư dưới mức, kết quả cho thấy rằng chất lượng 
báo cáo tài chính tốt hơn sẽ làm giảm tình 
trạng đầu tư quá mức nhưng không tác động 
đáng kể đến đầu tư dưới mức. Bên cạnh đó, 
việc sử dụng nợ ngắn hạn làm giảm thiểu cả 
hai tình trạng đầu tư dưới mức và đầu tư quá 
mức. Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp đang 
rơi vào tình trạng đầu tư dưới mức hay đầu tư 
quá mức, bài nghiên cứu không tìm thấy sự 
khác biệt về mức độ ảnh hưởng của FRQ lên 
hiệu quả đầu tư khi doanh nghiệp sử dụng các 
mức nợ ngắn hạn khác nhau. 
5. Kết luận 
Mục tiêu của bài nghiên cứu là nhằm xem 
xét tác động của chất lượng báo cáo tài chính 
và nợ ngắn hạn lên hiệu quả đầu tư bằng việc 
sử dụng một mẫu gồm 200 doanh nghiệp phi 
tài chính được niêm yết trên HOSE trong giai 
đoạn từ năm 2009-2015, và cho thấy một số 
kết quả như sau: 
 Thứ nhất, khi xem xét mối quan hệ 
giữa chất lượng báo cáo tài chính và hiệu quả 
đầu tư, bài nghiên cứu tìm thấy rằng: các 
doanh nghiệp có chất lượng báo cáo tài chính 
(FRQ) tốt hơn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả 
đầu tư, làm giảm tình trạng đầu tư quá mức 
nhưng lại không tác động đáng kể đến đầu tư 
dưới mức. Lý do đưa ra là khi chất lượng báo 
cáo tài chính được nâng cao thì các thông tin 
tài chính được công bố trở nên đáng tin cậy, 
từ đó giúp các nhà quản lý tránh được việc 
thực hiện các dự án xấu, giảm thiểu vấn đề 
lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức, các 
quyết định đầu tư sẽ đạt hiệu quả cao hơn. 
Hơn nữa, việc nâng cao chất lượng báo cáo 
tài chính có thể ngăn ngừa những hành vi vì 
lợi ích cá nhân của nhà quản lý cũng như tạo 
được niềm tin cho các nhà đầu tư bên ngoài 
trong việc quyết định thực hiện đầu tư, tránh 
được các dự án đầu tư không hiệu quả, cũng 
như kiểm soát được các quyết định đầu tư 
của nhà quản lý. 
 Thứ hai: bài nghiên cứu xem xét mối 
quan hệ giữa việc sử dụng nợ ngắn hạn và 
hiệu quả đầu tư. Kết quả nghiên cứu cũng cho 
thấy rằng sử dụng nợ ngắn hạn có thể cải 
thiện hiệu quả đầu tư trong cả 2 trường hợp 
đầu tư dưới mức và quá mức. Lý do đưa ra là 
việc sử dụng nợ ngắn hạn có thể làm giảm 
tình trạng thông tin bất cân xứng khi đứng 
trên cả hai quan điểm bên đi vay và bên cho 
vay. Theo quan điểm của bên đi vay, việc sử 
dụng các khoản nợ ngắn hạn cho thấy dấu 
hiệu công ty đang hoạt động ổn định và qua 
đó có thể đạt được những điều kiện vay tốt 
hơn đối với các khoản vay gia hạn tiếp theo 
(Flannery, 1986; Berger và Udell, 1998; Oriz-
Molina và Penas, 2008). Còn theo quan điểm 
bên cho vay, các khoản nợ có kỳ hạn ngắn thì 
sẽ cho phép chủ nợ dễ dàng kiểm soát việc sử 
dụng vốn của các nhà quản lý, tránh được rủi 
ro nợ xấu hay không thu hồi được vốn 
(Diamond, 1991 và 1993). Sự linh hoạt cao 
của các khoản nợ ngắn hạn giúp cải làm giảm 
tình trạng đầu tư không hiệu quả (Myers, 
1977; Childs và cộng sự, 2005). Như vậy, các 
66 Hoàng Thị Phương Anh và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 58(1), 53-67 
công ty sử dụng nợ ngắn hạn càng nhiều thì 
vấn đề tiếp cận nguồn vốn càng dễ dàng, từ đó 
công ty có cơ hội để đầu tư hiệu quả hơn. 
 Cuối cùng, bài nghiên cứu xem xét sự 
thay đổi trong mức độ tác động của chất 
lượng báo cáo tài chính đến hiệu quả đầu tư 
khi nợ ngắn hạn thay đổi, bài nghiên cứu 
cũng tìm thấy được mối quan hệ thay thế 
giữa chất lượng báo cáo tài chính và nợ ngắn 
hạn trong việc nâng cao hiệu quả đầu tư: 
doanh nghiệp sử dụng nợ ngắn hạn ít hơn thì 
mức độ tác động của chất lượng báo cáo tài 
chính lên hiệu quả đầu tư mạnh hơn. Lý do 
đưa ra là những doanh nghiệp có chất lượng 
báo cáo tài chính tốt hơn thì bên cho vay sẽ ít 
yêu cầu các khoản nợ ngắn hạn để kiểm soát 
hành vi của nhà quản trị doanh nghiệp, do đó 
kỳ hạn nợ sẽ dài hơn (Bharath và cộng sự, 
2008; García-teruel và cộng sự, 2010). Vì 
thế, mức độ tác động của chất lượng báo cáo 
tài chính lên việc giảm bớt vấn đề bất cân 
xứng thông tin sẽ tăng lên khi sử dụng kỳ 
hạn nợ dài hơn và giảm đi khi sử dụng kỳ 
hạn nợ ngắn hơn. 
Từ kết quả nghiên cứu trên cho thấy được 
tầm quan trọng của chất lượng báo cáo tài 
chính và nợ ngắn hạn đối với hiệu quả đầu tư. 
Do vậy, các doanh nghiệp cần nâng cao chất 
lượng báo cáo tài chính, phát hiện những bất 
thường từ các tỷ số tài chính để có những giải 
pháp khắc phục kịp thời. Bên cạnh đó, doanh 
nghiệp cũng nên sử dụng nguồn vốn hợp lý 
cho các dự án đầu tư khi tài trợ bằng nợ. 
Ngoài ra, do quyết định đầu tư của doanh 
nghiệp chịu ảnh hưởng bởi vấn đề đại diện khi 
người đại diện không thực hiện đầy đủ và chặt 
chẽ quyền quản lý, giám sát của mình, nên 
doanh nghiệp cần thực hiện một số các cơ chế 
giám sát, từ đó góp phần quản lý tài chính, 
hạn chế các hành vi cơ hội của nhà quản lý, 
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng như hiệu 
quả đầu tư 
Tài liệu tham khảo 
Almeida, H., & Campello, M. (2007). Financial constraints, asset tangibility, and corporate investment. The Review 
of Financial Studies, 20(5), 1429-1460. 
Aivazian, V. A., Ge, Y., & Qiu, J. (2005). The impact of leverage on firm investment: Canadian evidence. Journal 
of corporate finance, 11(1), 277-291. 
Barclay, M. J., & Smith, C. W. (1995). The maturity structure of corporate debt. The Journal of Finance, 50(2), 
609-631. 
Beatty, A., Scott Liao, W., & Weber, J. (2010). The effect of private information and monitoring on the role of 
accounting quality in investment decisions. Contemporary Accounting Research, 27(1), 17-47. 
Berger, A. N., & Udell, G. F. (1998). The economics of small business finance: The roles of private equity and debt 
markets in the financial growth cycle. Journal of banking & finance, 22(6), 613-673. 
Bharath, S. T., Sunder, J., & Sunder, S. V. (2008). Accounting quality and debt contracting. The Accounting 
Review, 83(1), 1-28. 
Biddle, G. C., & Hilary, G. (2006). Accounting quality and firm-level capital investment. The Accounting 
Review, 81(5), 963-982. 
Biddle, G. C., Hilary, G., & Verdi, R. S. (2009). How does financial reporting quality relate to investment 
efficiency?. Journal of accounting and economics, 48(2), 112-131. 
Bushman, R. M., & Smith, A. J. (2001). Financial accounting information and corporate governance. Journal of 
accounting and Economics, 32(1), 237-333. 
Chen, F., Hope, O. K., Li, Q., & Wang, X. (2011). Financial reporting quality and investment efficiency of private 
firms in emerging markets. The accounting review, 86(4), 1255-1288. 
Childs, P. D., Mauer, D. C., & Ott, S. H. (2005). Interactions of corporate financing and investment decisions: The 
effects of agency conflicts. Journal of financial economics, 76(3), 667-690. 
 Hoàng Thị Phương Anh và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 58(1), 53-67 67 
Crotty, J. R. (1992). Neoclassical and Keynesian approaches to the theory of investment. Journal of Post Keynesian 
Economics, 14(4), 483-496. 
Datta, S., ISKANDAR‐DATTA, M. A. I., & Raman, K. (2005). Managerial stock ownership and the maturity 
structure of corporate debt. The Journal of Finance, 60(5), 2333-2350. 
Diamond, D. W. (1991). Debt maturity structure and liquidity risk. The Quarterly Journal of Economics, 106(3), 
709-737. 
Diamond, D. W. (1993). Seniority and maturity of debt contracts. Journal of financial Economics, 33(3), 341-368. 
Flannery, M. J. (1986). Asymmetric information and risky debt maturity choice. The Journal of Finance, 41(1), 19-37. 
Garc a-Marco, T., & Ocana, C. (1999). The effect of bank monitoring on the investment behavior of Spanish 
firms. Journal of Banking & Finance, 23(11), 1579-1603. 
García‐teruel, P. J., Martínez‐solano, P. E. D. R. O., & Sánchez‐ballesta, J. P. (2010). Accruals quality and debt 
maturity structure. Abacus, 46(2), 188-210. 
Gomariz, M. F. C., & Ballesta, J. P. S. (2014). Financial reporting quality, debt maturity and investment 
efficiency. Journal of Banking & Finance, 40, 494-506. 
Guedes, J., & Opler, T. (1996). The determinants of the maturity of corporate debt issues. The Journal of 
Finance, 51(5), 1809-1833. 
Healy, P. M., & Palepu, K. G. (2001). Information asymmetry, corporate disclosure, and the capital markets: A 
review of the empirical disclosure literature. Journal of accounting and economics, 31(1), 405-440. 
Jensen, M. C. (1986). Agency costs of free cash flow, corporate finance, and takeovers. The American economic 
review, 76(2), 323-329. 
Jones, J. J. (1991). Earnings management during import relief investigations. Journal of accounting research, 193-228. 
Jun, S. G., & Jen, F. C. (2003). Trade-off model of debt maturity structure. Review of Quantitative Finance and 
Accounting, 20(1), 5-34. 
Kasznik, R. (1999). On the association between voluntary disclosure and earnings management. Journal of 
accounting research, 37(1), 57-81. 
Magri, S. (2010). Debt maturity choice of nonpublic Italian firms. Journal of Money, Credit and Banking, 42(2‐3), 
443-463. 
Mai Hoàng Hạnh (2015). Ảnh hưởng của chất lượng báo cáo tài chính và kỳ hạn nợ đối với hiệu quả đầu tư. Luận 
văn thạc sĩ kinh tế. 
McNichols, M. F., & Stubben, S. R. (2008). Does earnings management affect firms’ investment decisions?. The 
accounting review, 83(6), 1571-1603. 
Modares, A. & Hesarzade, R. (2008). The study of the relationship between financial reporting quality and 
investment revenue. Journal of Stock, 1(2), 82-116. 
Myers, S. C. (1977). Determinants of corporate borrowing. Journal of financial economics, 5(2), 147-175. 
Ortiz-Molina, H., & Penas, M. F. (2008). Lending to small businesses: The role of loan maturity in addressing 
information problems. Small Business Economics, 30(4), 361-383. 
Petersen, M. A. (2009). Estimating standard errors in finance panel data sets: Comparing approaches. The Review of 
Financial Studies, 22(1), 435-480. 
Rajan, R. G. (1992). Insiders and outsiders: The choice between informed and arm's‐length debt. The Journal of 
Finance, 47(4), 1367-1400. 
Wang, F., Zhu, Z., & Hoffmire, J. (2014). Financial reporting quality, ownership concentration, and investment 
efficiency: evidence from China. BioTechnology: An Indian Journal, 10(18). 
Verdi, R. S. (2006). Financial reporting quality and investment efficiency. 

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_chat_luong_bao_cao_tai_chinh_va_no_ngan_han_de.pdf