Ảnh hưởng của chất điều hòa sinh trưởng lên sự tăng sinh và phát sinh hình thái của mô sẹo có nguồn gốc từ tử diệp cây bá bệnh (Eurycoma longifolia)

TÓM TẮT

Bá bệnh hay còn gọi là mật nhân (Eurycoma logifolia) là loại dược liệu quý thuộc họ

thanh thất (Simaroubaceae). Công dụng chính yếu của cây này là điều trị sốt rét và tăng

cường chức năng sinh lý nam. Cây bá bệnh có chứa nhiều hợp chất có hoạt tính sinh học

như quassinoid, alkaloid, các dẫn chất squalene và steroid. Hiện nay, nhiều nghiên cứu về

hợp chất thứ cấp và công dụng của cây này đã được thực hiện. Tuy nhiên, các nghiên cứu về

nuôi cấy in vitro vẫn còn hạn chế. Trong nghiên cứu này, ảnh hưởng của chất điều hòa sinh

trưởng lên sự tăng sinh khối mô sẹo và sự phát sinh hình thái của mẫu mô sẹo có nguồn gốc

từ tử diệp cây bá bệnh được khảo sát. Kết quả thí nghiệm khảo sát sự tăng sinh mô sẹo cho

thấy, các mẫu mô sẹo bá bệnh tăng sinh khối cao nhất trong môi trường MS có bổ sung

3,0 mg/L 2,4-D kết hợp với 2,0 mg/L thidiazuron (TDZ) (3,86 g/mẫu). Ở nghiệm thức sử

dụng 2,4-D kết hợp với IBA, các mẫu cấy mô sẹo được nuôi cấy trên môi trường có bổ sung

2,4-D kết hợp với IBA đều có sự phát sinh rễ và cảm ứng hình thành phôi vô tính. Kết quả ở

nghiệm thức này cho thấy, sự hình thành rễ ở các mẫu mô sẹo cao nhất ở nghiệm thức có bổ

sung 0,5 mg/L 2,4-D kết hợp với 4,0 mg/L IBA (5,3 rễ/mẫu). Với chỉ tiêu về số lượng phôi, sự

phát sinh phôi vô tính cao nhất ở nghiệm thức chỉ bổ sung 3,0 mg/L IBA (14,3 phôi/mẫu).

pdf 11 trang phuongnguyen 1820
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của chất điều hòa sinh trưởng lên sự tăng sinh và phát sinh hình thái của mô sẹo có nguồn gốc từ tử diệp cây bá bệnh (Eurycoma longifolia)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của chất điều hòa sinh trưởng lên sự tăng sinh và phát sinh hình thái của mô sẹo có nguồn gốc từ tử diệp cây bá bệnh (Eurycoma longifolia)

Ảnh hưởng của chất điều hòa sinh trưởng lên sự tăng sinh và phát sinh hình thái của mô sẹo có nguồn gốc từ tử diệp cây bá bệnh (Eurycoma longifolia)
Nguyễn Ngọc Quỳnh Thơ, Nguyễn Duy Khánh, Huỳnh Thị Anh Sang, Từ Văn Út, 
64 
5. Dương Tấn Nhựt - Công nghệ sinh học thực vật, Tập 1, NXB Nông nghiệp, TP. Hồ Chí 
Minh, 2007, tr. 95. 
6. Nguyễn Thị Nhật Linh, Nguyễn Bá Nam, Nguyễn Thị Kim Yến, Lê Kim Cương, 
Nguyễn Phúc Huy, Dương Tấn Nhựt - Ảnh hưởng của than hoạt tính lên khả năng định 
hướng rễ ở cây hồng môn và cây cúc nuôi cấy in vitro, Tạp chí Sinh học 34 (3) (2012) 
377-388. 
7. Alsemaan T. - Micropropagation of Damask Rose (Rosa damascena Mill.) cv. Almarah, 
International Journal of Agricultural Research 8 (4) (2013) 172-177. 
8. Lê Trần Bình, Hồ Hữu Nhị, Lê Thị Muội - Công nghệ sinh học thực vật trong cải tiến 
giống cây trồng, NXB Nông nghiệp, 1997, tr. 132. 
9. Lâm Ngọc Phương, Nguyễn Bảo Vệ, Đỗ Thị Trang Nhã - Ảnh hưởng của cường độ ánh 
sáng và hàm lượng đường sucrose trong môi trường nuôi cấy đến sự phát triển của chồi 
dưa hấu tam bội in vitro, Tạp Khoa học Trường Đại học Cần Thơ 4 (2005) 1-8. 
10. Nguyễn Thị Phương Thảo, Đặng Quang Bích, Nguyễn Thị Thủy, Nguyễn Thị Thùy 
Linh, Phạm Thị Thu Hằng, Đặng Thị Thanh Tâm, Ninh Thị Thảo, Nguyễn Thị Lâm Hải, 
Nguyễn Thanh Hải - Nhân nhanh và cảm ứng ra hoa in vitro cây hoa hồng cơm (Rosa 
sericea Lindl), Tạp chí Khoa học và Phát triển 13 (4) (2015) 606-613. 
11. Naphaporn N. U., Kantamaht K., Kamnoon K. - Micropropagation from cultured nodal 
explants of rose (Rosa hybrida L. cv. ‘Perfume Delight’), Songklanakarin Journal of 
Science and Technology 31 (6) (2009) 583-586. 
12. Zeng S., Liang S., Zhang Y.Y., Wu K. L., TeixeirdaSilva J.A., Duan J. - In vitro 
flowering red miniature rose, Biologia Plantarum 57 (3) (2013) 401-409. 
13. Hameed N., Shabbir A., Ali A., Bajwa R. - In vitro micropropagation of disease free rose 
(Rosa indica L.), Mycopath 4 (2) (2006) 35-38. 
ABSTRACT 
STUDY ON IN VITRO SHOOT INDUCTION OF MINIATURE ROSE 
(Rosa chinensis Jacq. Var. minima Redh) 
Nguyen Ngoc Quynh Tho, Nguyen Duy Khanh, 
Huynh Thi Anh Sang, Tu Van Ut, Truong Quynh Yen Yen, 
Nguyen Thanh Luan, Trinh Thi Huong* 
Ho Chi Minh City University of Food Industry 
*Email: trinhthihuongcsdl@gmail.com 
Roses are beautiful and popular species. However, the propagation of roses is difficult 
because they are woody plants. This study investigates some factors impacting the in vitro 
shoot induction from the node of Rosa chinensis Jacq. Var. minima Redh. The results show 
that the percentage of uninfected samples was 71.67% when the nodes were sterilized with 
0.2% HgCl2 solution for 10 min. MS medium supplemented with 2.0 mg/L BA, 0.5 mg/L 
Kinetin, 0.5 g/L activated charcoal, 30.0 g/L sucrose, pH 5.8 was suitable for induction of in 
vitro shoots. After 21 days of culture, the shoot formation rate was 100% with 3.6 shoots per 
sample, the shoots’ average height was 2.2 cm. The study results can be used as a reference 
for establishing a process of propagating Rosa chinensis Jacq. Var. minima Redh. 
Keywords: BA, miniature rose, in vitro, shoot induction, propagation. 
Tạp chí Khoa học công nghệ và Thực phẩm 15 (1) (2018) 65-75 
65 
ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤT ĐIỀU HÒA SINH TRƯỞNG 
LÊN SỰ TĂNG SINH VÀ PHÁT SINH HÌNH THÁI CỦA MÔ SẸO 
CÓ NGUỒN GỐC TỪ TỬ DIỆP CÂY BÁ BỆNH 
(Eurycoma longifolia) 
Nguyễn Thị Dược1, Đỗ Đăng Giáp1, 
Trịnh Thị Hương2, Trần Trọng Tuấn1* 
1Viện Sinh học Nhiệt đới, VAST 
2Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm TP.HCM 
*Email: trantrongtuan.com@gmail.com 
Ngày nhận bài: 20/4/2018; Ngày chấp nhận đăng: 05/6/2018 
TÓM TẮT 
Bá bệnh hay còn gọi là mật nhân (Eurycoma logifolia) là loại dược liệu quý thuộc họ 
thanh thất (Simaroubaceae). Công dụng chính yếu của cây này là điều trị sốt rét và tăng 
cường chức năng sinh lý nam. Cây bá bệnh có chứa nhiều hợp chất có hoạt tính sinh học 
như quassinoid, alkaloid, các dẫn chất squalene và steroid. Hiện nay, nhiều nghiên cứu về 
hợp chất thứ cấp và công dụng của cây này đã được thực hiện. Tuy nhiên, các nghiên cứu về 
nuôi cấy in vitro vẫn còn hạn chế. Trong nghiên cứu này, ảnh hưởng của chất điều hòa sinh 
trưởng lên sự tăng sinh khối mô sẹo và sự phát sinh hình thái của mẫu mô sẹo có nguồn gốc 
từ tử diệp cây bá bệnh được khảo sát. Kết quả thí nghiệm khảo sát sự tăng sinh mô sẹo cho 
thấy, các mẫu mô sẹo bá bệnh tăng sinh khối cao nhất trong môi trường MS có bổ sung 
3,0 mg/L 2,4-D kết hợp với 2,0 mg/L thidiazuron (TDZ) (3,86 g/mẫu). Ở nghiệm thức sử 
dụng 2,4-D kết hợp với IBA, các mẫu cấy mô sẹo được nuôi cấy trên môi trường có bổ sung 
2,4-D kết hợp với IBA đều có sự phát sinh rễ và cảm ứng hình thành phôi vô tính. Kết quả ở 
nghiệm thức này cho thấy, sự hình thành rễ ở các mẫu mô sẹo cao nhất ở nghiệm thức có bổ 
sung 0,5 mg/L 2,4-D kết hợp với 4,0 mg/L IBA (5,3 rễ/mẫu). Với chỉ tiêu về số lượng phôi, sự 
phát sinh phôi vô tính cao nhất ở nghiệm thức chỉ bổ sung 3,0 mg/L IBA (14,3 phôi/mẫu). 
Từ khoá: Auxin, cây bá bệnh, lá mầm, mô sẹo, sự phát sinh hình thái. 
1. MỞ ĐẦU 
Nuôi cấy tế bào thực vật là con đường được dùng để thu nhận các chất chuyển hóa thứ 
cấp hữu ích và đã được nghiên cứu ở nhiều loài thực vật. Kỹ thuật nuôi cấy biệt hóa các cơ 
quan, đặc biệt là nuôi cấy để tạo mô sẹo, phôi và rễ bất định đã được áp dụng trong nhiều cây 
dược liệu do sự tăng trưởng nhanh và có khả năng sản xuất số lượng sinh khối lớn và ổn định 
các chất chuyển hóa thứ cấp [1]. Một số loại cây như sâm Ngọc Linh (Panax 
vietnamensis Ha et Grushv), bảy lá một hoa (Paris sp.), bá bệnh (Eurycoma longifolia), là 
những loài cây có giá trị dược liệu và thương mại cao. Tuy nhiên, các loài này có vùng phân bố 
hẹp, thời gian sinh trưởng kéo dài, việc khai thác quá mức dẫn đến quần thể trong tự nhiên 
ngày càng bị thu hẹp. Việc ứng dụng nuôi cấy mô tế bào thực vật mở ra giải pháp giúp bảo tồn 
nguồn gen, chủ động trong việc kiểm soát và sản xuất sinh khối các nguồn dược liệu này. 
Nguyễn Thị Dược, Đỗ Đăng Giáp, Trịnh Thị Hương, Trần Trọng Tuấn 
66 
Cây bá bệnh được biết đến như một loại sâm của Malaysia, là cây dược liệu quý thuộc họ 
thanh thất (Simaroubaceae), phân bố ở Việt Nam và các nước khu vực Đông Nam Á. Trong 
cây bá bệnh có chứa các hợp chất quý như quassinoid, triterpen, alkaloid Ở Việt Nam, cây 
bá bệnh được tìm thấy chủ yếu ở các vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Với 
nhiều công dụng như tăng cường sinh lý, cải thiện chức năng sinh lý ở nam giới, điều trị ung 
thư, sốt rét, tiểu đường, huyết áp cao [2]. Trên đối tượng cây bá bệnh, các nghiên cứu về tạo 
phôi và rễ bất định trên loại cây này cũng đã được thực hiện như Aziv et al., Hussein et al., 
Mahmood et al. đã nghiên cứu cảm ứng tạo mô sẹo từ các cơ quan khác nhau của cây như lá, 
cuống lá, thân, rễ và lá mầm trên môi trường bổ sung 2,4-D, IAA, NAA, picloram và 
dicamba [3-5]. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các mẫu lá được nuôi cấy trên môi trường có bổ 
sung 1,0 mg/L 2,4 - D cho sự hình thành mô sẹo tốt nhất (81,76%). Đối với mẫu cuống lá, tỷ 
lệ hình thành mô sẹo ở nghiệm thức sử dụng 4,0 mg/L 2,4-D hay 4,0 mg/L picloram 
(78,33%) cho kết quả cao hơn so vớ các nghiệm thức còn lại. Đối với mẫu thân, kết quả tốt 
nhất thu được ở nghiệm thức sử dụng 2,4-D ở nồng độ 2,0 mg/L (88,33%). Ở mẫu lá mầm, 
tỷ lệ hình thành mô sẹo đạt được 85% ở nghiệm thức sử dụng 4,0 mg/L 2,4-D. Nghiên cứu 
về quá trình phát sinh mô sẹo từ mẫu lá cây bá bệnh của Đỗ Quốc Trường cho thấy, trong 
môi trường có bổ sung auxin kết hợp với cytokinin cho tỷ lệ mẫu tạo mô sẹo và khối lượng 
tươi cao hơn so với môi trường chỉ bổ sung auxin [6]. 
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm khảo sát sự ảnh hưởng của chất điều hòa sinh 
trưởng thực vật lên quá trình cảm ứng và tăng sinh mô sẹo nhằm tạo nguồn nguyên liệu cho 
các nghiên cứu tiếp theo. 
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 
2.1. Vật liệu 
Mô sẹo cây bá bệnh được cảm ứng từ lớp mỏng lá mầm hạt bá bệnh trên môi trường 
Murashige và Skoog (MS) [7] bổ sung 2,4-D và kinetin (KIN) được sử dụng làm vật liệu 
nuôi cấy. 
Môi trường nuôi cấy MS bổ sung 30 g/L sucrose, chất điều hòa sinh trưởng thực vật 
(CĐHSTTV) (tùy thuộc vào từng nghiệm thức của từng thí nghiệm) và 8 g/L agar, pH môi 
trường được chỉnh ở 5,8, hấp khử trùng ở 121 ºC áp suất 1 atm. Các mẫu được nuôi cấy trên 
đĩa petri có đường kính 8 cm chứa 30 mL môi trường. Các bình mẫu được đặt trong phòng thí 
nghiệm có cường độ ánh sáng 45 ± 2 µmol m-2 s-1 với nhiệt độ được duy trì ở 24 ± 2 ºC và độ 
ẩm của phòng thí nghiệm đảm bảo trong khoảng 70-80%, thời gian chiếu sáng 12 giờ/ngày. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
2.2.1. Khảo sát khả năng kết hợp giữa 2,4-D và TDZ lên sự tăng sinh và phát sinh hình thái 
của mô sẹo cây bá bệnh 
Mẫu mô sẹo có khối lượng 0,1 g được cấy lên môi trường MS có bổ sung TDZ (0; 0,5; 
1,0; 1,5; 2,0 mg/L) kết hợp với 2,4-D (0; 1,0; 2,0; 3,0 mg/L). Các chỉ tiêu theo dõi như khối 
lượng mẫu, hình thái mô sẹo và quan sát màu sắc, cấu trúc của mô sẹo được ghi nhận sau 
45 ngày nuôi cấy. 
2.2.2. Khảo sát ảnh hưởng của 2,4-D và IBA lên sự tăng sinh và phát sinh hình thái của mô 
sẹo cây bá bệnh 
Mẫu mô sẹo được có khối lượng 0,1 g được cấy lên môi trường MS có bổ sung 2,4-D 
(0; 0,5; 1,0 mg/L) kết hợp với IBA (0; 1,0; 2,0; 3,0; 4,0; 5,0 mg/L). Các chỉ tiêu theo dõi như 
Nguyễn Thị Dược, Đỗ Đăng Giáp, Trịnh Thị Hương, Trần Trọng Tuấn 
66 
Cây bá bệnh được biết đến như một loại sâm của Malaysia, là cây dược liệu quý thuộc họ 
thanh thất (Simaroubaceae), phân bố ở Việt Nam và các nước khu vực Đông Nam Á. Trong 
cây bá bệnh có chứa các hợp chất quý như quassinoid, triterpen, alkaloid Ở Việt Nam, cây 
bá bệnh được tìm thấy chủ yếu ở các vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Với 
nhiều công dụng như tăng cường sinh lý, cải thiện chức năng sinh lý ở nam giới, điều trị ung 
thư, sốt rét, tiểu đường, huyết áp cao [2]. Trên đối tượng cây bá bệnh, các nghiên cứu về tạo 
phôi và rễ bất định trên loại cây này cũng đã được thực hiện như Aziv et al., Hussein et al., 
Mahmood et al. đã nghiên cứu cảm ứng tạo mô sẹo từ các cơ quan khác nhau của cây như lá, 
cuống lá, thân, rễ và lá mầm trên môi trường bổ sung 2,4-D, IAA, NAA, picloram và 
dicamba [3-5]. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các mẫu lá được nuôi cấy trên môi trường có bổ 
sung 1,0 mg/L 2,4 - D cho sự hình thành mô sẹo tốt nhất (81,76%). Đối với mẫu cuống lá, tỷ 
lệ hình thành mô sẹo ở nghiệm thức sử dụng 4,0 mg/L 2,4-D hay 4,0 mg/L picloram 
(78,33%) cho kết quả cao hơn so vớ các nghiệm thức còn lại. Đối với mẫu thân, kết quả tốt 
nhất thu được ở nghiệm thức sử dụng 2,4-D ở nồng độ 2,0 mg/L (88,33%). Ở mẫu lá mầm, 
tỷ lệ hình thành mô sẹo đạt được 85% ở nghiệm thức sử dụng 4,0 mg/L 2,4-D. Nghiên cứu 
về quá trình phát sinh mô sẹo từ mẫu lá cây bá bệnh của Đỗ Quốc Trường cho thấy, trong 
môi trường có bổ sung auxin kết hợp với cytokinin cho tỷ lệ mẫu tạo mô sẹo và khối lượng 
tươi cao hơn so với môi trường chỉ bổ sung auxin [6]. 
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm khảo sát sự ảnh hưởng của chất điều hòa sinh 
trưởng thực vật lên quá trình cảm ứng và tăng sinh mô sẹo nhằm tạo nguồn nguyên liệu cho 
các nghiên cứu tiếp theo. 
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 
2.1. Vật liệu 
Mô sẹo cây bá bệnh được cảm ứng từ lớp mỏng lá mầm hạt bá bệnh trên môi trường 
Murashige và Skoog (MS) [7] bổ sung 2,4-D và kinetin (KIN) được sử dụng làm vật liệu 
nuôi cấy. 
Môi trường nuôi cấy MS bổ sung 30 g/L sucrose, chất điều hòa sinh trưởng thực vật 
(CĐHSTTV) (tùy thuộc vào từng nghiệm thức của từng thí nghiệm) và 8 g/L agar, pH môi 
trường được chỉnh ở 5,8, hấp khử trùng ở 121 ºC áp suất 1 atm. Các mẫu được nuôi cấy trên 
đĩa petri có đường kính 8 cm chứa 30 mL môi trường. Các bình mẫu được đặt trong phòng thí 
nghiệm có cường độ ánh sáng 45 ± 2 µmol m-2 s-1 với nhiệt độ được duy trì ở 24 ± 2 ºC và độ 
ẩm của phòng thí nghiệm đảm bảo trong khoảng 70-80%, thời gian chiếu sáng 12 giờ/ngày. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
2.2.1. Khảo sát khả năng kết hợp giữa 2,4-D và TDZ lên sự tăng sinh và phát sinh hình thái 
của mô sẹo cây bá bệnh 
Mẫu mô sẹo có khối lượng 0,1 g được cấy lên môi trường MS có bổ sung TDZ (0; 0,5; 
1,0; 1,5; 2,0 mg/L) kết hợp với 2,4-D (0; 1,0; 2,0; 3,0 mg/L). Các chỉ tiêu theo dõi như khối 
lượng mẫu, hình thái mô sẹo và quan sát màu sắc, cấu trúc của mô sẹo được ghi nhận sau 
45 ngày nuôi cấy. 
2.2.2. Khảo sát ảnh hưởng của 2,4-D và IBA lên sự tăng sinh và phát sinh hình thái của mô 
sẹo cây bá bệnh 
Mẫu mô sẹo được có khối lượng 0,1 g được cấy lên môi trường MS có bổ sung 2,4-D 
(0; 0,5; 1,0 mg/L) kết hợp với IBA (0; 1,0; 2,0; 3,0; 4,0; 5,0 mg/L). Các chỉ tiêu theo dõi như 
Ảnh hưởng của chất điều hòa sinh trưởng lên sự tăng sinh và phát triển hình thái  
67 
khối lượng mẫu, hình thái mô sẹo và quan sát màu sắc, cấu trúc của mô sẹo được ghi nhận 
sau 45 ngày nuôi cấy. 
2.2.3. Xử lý số liệu 
Số liệu được ghi nhận và xử lý bằng Microsoft Excel® 2007. Các giá trị được so sánh 
trung bình bằng phương pháp phân tích ANOVA và xử lý trắc nghiệm phân hạn theo phương 
pháp Duncan bằng phần mềm thống kê SAS 9.1. 
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Ảnh hưởng của 2,4-D và TDZ trong quá trình tăng sinh và phát sinh hình thái khối 
mô sẹo bá bệnh 
Sau 45 ngày nuôi cấy, kết quả cho thấy có sự khác biệt về hình thái mô sẹo trong các 
nghiệm thức bổ sung nồng độ 2,4-D và TDZ khác nhau (Bảng 1). Hầu hết mô sẹo trong các 
nghiệm thức đề có cấu trúc xốp, bở, có màu vàng xanh và màu vàng nâu. Các mô sẹo trong các 
nghiệm thức chỉ bổ sung TDZ riêng lẻ, màu sắc của mô sẹo chuyển từ màu vàng sang màu 
vàng xanh ở các nghiệm thức sử dụng TDZ nồng độ thấp (0,5 - 1,5 mg/L) (Hình 1b). Tuy 
nhiên, khi nồng độ TDZ bổ sung vào môi trường cao (2,0 mg/L) thì mô sẹo chuyển sang màu 
vàng nâu (Hình 1d). Tương tự đối với các nghiệm thức bổ sung 1,0 mg/L 2,4-D, khi thay đổi 
nồng độ của TDZ bổ sung vào môi trường nuôi cấy màu sắc của mô sẹo cũng bị thay đổi từ 
màu vàng sang màu vàng xanh và màu vàng nâu. Môi trường chứa các chất điều hòa sinh 
trưởng ở nồng độ cao đã ảnh hưởng đến sức sống của mô sẹo, do đó các mô sẹo có xu hướng 
hóa nâu và chết trong các nghiệm thức bổ sung 2,4-D ở nồng độ 3,0 mg/L. Từ kết quả trên cho 
thấy, nồng độ TDZ và 2,4-D ảnh hưởng đến cấu trúc và màu sắc của mô sẹo bá bệnh. 
Bảng 1. Ảnh hưởng của 2,4-D và TDZ lên tỷ lệ sống và hình thái mô sẹo 
của cây bá bệnh sau 45 ngày nuôi cấy 
Nồng độ 2,4-D 
(mg/L) 
Nồng độ TDZ 
(mg/L) Hình thái mẫu cấy 
0,0 0,0 Mô sẹo xốp, bở, có màu vàng 
0,0 0,5 Mô sẹo xốp, bở, có màu vàng và màu xanh 
0,0 1,0 Mô sẹo rắn, chắc, có màu vàng và màu xanh 
0,0 1,5 Mô sẹo rắn, chắc, có màu vàng và màu xanh 
0,0 2,0 Mô sẹo xốp, bở, có màu vàng nâu 
1,0 0,0 Mô sẹo xốp, bở, có màu vàng 
1,0 0,5 Mô sẹo rắn, chắc, có màu vàng và màu xanh 
1,0 1,0 Mô sẹo rắn, chắc, có màu vàng và màu xanh 
1,0 1,5 Mô sẹo xốp, bở, màu vàng 
1,0 2,0 Mô sẹo xốp, bở, màu vàng nâu 
2,0 0,0 Mô sẹo xốp, bở, màu vàng 
2,0 0,5 Mô sẹo xốp, bở, màu vàng 
2,0 1,0 Mô sẹo xốp, bở, có màu xanh và màu vàng 
2,0 1,5 Mô sẹo xốp, bở, màu vàng 
2,0 2,0 Mô sẹo xốp, bở, màu vàng nhạt 
3,0 0,0 Mô sẹo xốp, bở, màu vàng nhạt 
3,0 0,5 Mô ... môi trường có chứa auxin cao sau đó chuyển mẫu cấy sang môi trường mới 
không chứa auxin hoặc chứa auxin ở nồng độ thấp để thúc đẩy quá trình phát triển phôi [16].
Do đó, nồng độ IBA bổ sung vào môi trường ở mức cao không thích hợp cho sự phát sinh 
phôi của mô sẹo. 
Hình 3. Phôi vô tính phát sinh từ mô sẹo trong môi trường bổ sung IBA và 2,4-D; 
a: phôi hình tim; b: phôi hình thủy lôi. 
3.2.4 Ảnh hưởng của 2,4-D và IBA lên khối lượng mẫu cấy mô sẹo 
Sau 45 ngày nuôi cấy trong môi trường bổ sung IBA và 2,4-D, kết quả cho thấy khối 
lượng của mẫu cấy đã gia tăng về khối lượng so với khối lượng mẫu cấy ban đầu (Bảng 6). 
Khối lượng của mẫu cấy thay đổi phụ thuộc vào nồng độ IBA và 2,4-D bổ sung vào môi 
trường nuôi cấy. Nồng độ IBA ở mức 4,0 mg/L cho khối lượng mẫu cao nhất, trong khi đó 
nồng độ 2,4-D ở mức 1,0 mg/L cho khối lượng mẫu cao nhất. Tuy nhiên, ở mức 0,5 mg/L và 
1,0 mg/L khối lượng mẫu là không có sự khác biệt về mặt thống kê. Nghiệm thức có khối 
lượng mẫu đạt giá trị cao nhất (0,55 g) khi được bổ sung kết hợp 0,5 mg/L 2,4-D với 
4,0 mg/L IBA. 
Kết quả Bảng 6 cho thấy, có sự khác biệt về mặt thống kê (ở mức xác xuất p < 0,01) ở 
các nghiệm thức sử dụng 2,4-D ở các nồng độ khác nhau, điều này cho thấy 2,4-D ảnh 
hưởng đến sự gia tăng khối lượng mô sẹo. Khối lượng mô sẹo trung bình ở nghiệm thức sử 
dụng 2,4-D (0,5 mg/L và 1,0 mg/L) cao hơn so với nghiệm thức không sử dụng 2,4-D. Ở 
nghiệm thức sử dụng 0,5 mg/l 2,4-D kết hợp với IBA (với các nồng độ khác nhau), kết quả 
cho thấy ở nồng độ 4,0 mg/L IBA các mẫu cấy đạt khối lượng mô sẹo cao nhất (0,55 g/mẫu). 
Nguyễn Thị Dược, Đỗ Đăng Giáp, Trịnh Thị Hương, Trần Trọng Tuấn 
72 
Dựa vào kết quả Bảng 5, xét về yếu tố nồng độ IBA, số lượng phôi vô tính hình thành 
trong điều kiện có bổ sung IBA sự khác biệt rõ rệt so với nghiệm thức đối chứng (không bổ 
sung IBA). Khi bổ sung IBA với nồng độ ở mức 1,0-3,0 mg/L, số lượng phôi vô tính tăng 
dần theo nồng độ IBA và số lượng phôi giảm dần khi nồng độ IBA tăng cao với mức từ 
4,0 mg/L đến 5,0 mg/L. Số lượng phôi vô tính hình thành từ mô sẹo đạt giá trị cao nhất khi 
bổ sung IBA vào môi trường với nồng độ ở mức 3,0 mg/L và số lượng phôi vô tính có giá trị 
thấp nhất khi bổ sung 5,0 mg/L IBA. 
Đối với yếu tố nồng độ 2,4-D, khi được bổ sung vào môi trường nuôi cấy với mức 
nồng độ 0,5-1,0 mg/L, số lượng phôi vô tính hình thành từ mô sẹo thấp hơn so với môi 
trường không bổ sung 2,4-D. Số lượng phôi vô tính không có sự khác biệt về mặt thống kê 
khi bổ sung 2,4-D với nồng độ ở mức 0,5-1,0 mg/L. Nghiệm thức có số lượng phôi vô tính 
đạt giá trị cao nhất (14,3 phôi/mẫu) khi bổ sung 3,0 mg/L IBA. Trong hình thái mẫu, các 
mẫu mô sẹo cảm ứng tạo nhiều dạng phôi khác nhau như phôi hình cầu (Hình 3a), phôi hình 
tim (Hình 3b). Theo Dương Tấn Nhựt, quá trình nuôi cấy tạo phôi được khởi phát bằng cách 
đưa mẫu cấy vào môi trường có chứa auxin cao sau đó chuyển mẫu cấy sang môi trường mới 
không chứa auxin hoặc chứa auxin ở nồng độ thấp để thúc đẩy quá trình phát triển phôi [16]. 
Do đó, nồng độ IBA bổ sung vào môi trường ở mức cao không thích hợp cho sự phát sinh 
phôi của mô sẹo. 
Hình 3. Phôi vô tính phát sinh từ mô sẹo trong môi trường bổ sung IBA và 2,4-D; 
a: phôi hình tim; b: phôi hình thủy lôi. 
3.2.4 Ảnh hưởng của 2,4-D và IBA lên khối lượng mẫu cấy mô sẹo 
Sau 45 ngày nuôi cấy trong môi trường bổ sung IBA và 2,4-D, kết quả cho thấy khối 
lượng của mẫu cấy đã gia tăng về khối lượng so với khối lượng mẫu cấy ban đầu (Bảng 6). 
Khối lượng của mẫu cấy thay đổi phụ thuộc vào nồng độ IBA và 2,4-D bổ sung vào môi 
trường nuôi cấy. Nồng độ IBA ở mức 4,0 mg/L cho khối lượng mẫu cao nhất, trong khi đó 
nồng độ 2,4-D ở mức 1,0 mg/L cho khối lượng mẫu cao nhất. Tuy nhiên, ở mức 0,5 mg/L và 
1,0 mg/L khối lượng mẫu là không có sự khác biệt về mặt thống kê. Nghiệm thức có khối 
lượng mẫu đạt giá trị cao nhất (0,55 g) khi được bổ sung kết hợp 0,5 mg/L 2,4-D với 
4,0 mg/L IBA. 
Kết quả Bảng 6 cho thấy, có sự khác biệt về mặt thống kê (ở mức xác xuất p < 0,01) ở 
các nghiệm thức sử dụng 2,4-D ở các nồng độ khác nhau, điều này cho thấy 2,4-D ảnh 
hưởng đến sự gia tăng khối lượng mô sẹo. Khối lượng mô sẹo trung bình ở nghiệm thức sử 
dụng 2,4-D (0,5 mg/L và 1,0 mg/L) cao hơn so với nghiệm thức không sử dụng 2,4-D. Ở 
nghiệm thức sử dụng 0,5 mg/l 2,4-D kết hợp với IBA (với các nồng độ khác nhau), kết quả 
cho thấy ở nồng độ 4,0 mg/L IBA các mẫu cấy đạt khối lượng mô sẹo cao nhất (0,55 g/mẫu). 
Ảnh hưởng của chất điều hòa sinh trưởng lên sự tăng sinh và phát triển hình thái  
73 
Bảng 6. Ảnh hưởng của 2,4-D và IBA lên khối lượng mô sẹo sau 45 ngày nuôi cấy (Đơn vị tính: g) 
Nồng độ IBA (mg/L) (I) 
Nồng độ 2,4-D (mg/L) (D) Trung bình 
(I) 0,0 0,5 1,0 
0,0 0,21efg 0,18fg 0,25def 0,21B 
1,0 0,31def 0,37fgh 0,39cde 0,35A 
2,0 0,15bcd 0,16bc 0,24fed 0,19B 
3,0 0,13fgh 0,16fgh 0,29def 0,19B 
4,0 0,24gh 0,55a 0,33bcd 0,37A 
5,0 0,08h 0,18fg 0,11gh 0,13C 
Trung bình (D) 0,19B 0,27A 0,27A 
FD = 27,7** FI = 61,1** FDI = 11,4** CV = 16,01% 
a,b,c, thể hiện sự khác biệt về mặt thống kê giữa các nghiệm thức ở mức xác suất p < 0,01 (**), 
và A, B, C, thể hiện sự khác biệt về mặt thống thống kê giữa các giá trị trung bình theo hàng (Yếu tố I), 
theo cột (Yếu tố D). 
Hơn nữa, khi kết hợp IBA với 2,4-D, kết quả cũng cho thấy có sự khác biệt về mặt 
thống kê giữa các nghiệm thức khác nhau. Các mẫu mô sẹo được nuôi cấy trong môi trường 
có bổ sung 0,5 mg/L 2,4-D kết hợp với IBA ở nồng độ 4,0 mg/L cho khối lượng mẫu đạt cao 
hơn so với các nghiệm thức còn lại. Từ kết quả của thí nghiệm cho thấy, loại và nồng độ 
auxin bổ sung vào môi trường nuôi cấy có ảnh hưởng khác nhau đến sự tăng sinh và phát 
sinh hình thái của mô sẹo. 
4. KẾT LUẬN 
Từ những kết quả đạt được cho thấy, loại và nồng độ auxin bổ sung vào môi trường 
nuôi cấy có ảnh hưởng đến sự tăng sinh và phát sinh hình thái của mô sẹo cây bá bệnh. Môi 
trường thích hợp cho sự tăng sinh mô sẹo là môi trường có bổ sung 3,0 mg/L 2,4-D kết hợp 
với 2,0 mg/L TDZ (3,86 g/mẫu). Trong quá trình khảo sát ảnh hưởng của 2,4-D kết hợp IBA 
lên khả năng phát sinh hình thái của mô sẹo, sự cảm ứng hình thành rễ từ mô sẹo bá bệnh đạt 
giá trị cao nhất khi môi trường nuôi cấy có bổ sung 0,5 mg/L 2,4-D kết hợp với 4,0 mg/L 
IBA (5,3 rễ/mẫu). Sự phát sinh phôi vô tính đạt cao nhất ở nghiệm thức chỉ bổ sung 
3,0 mg/L IBA (14,3 phôi/mẫu). 
Lời cảm ơn: Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn Phòng Thí nghiệm Trọng điểm phía Nam 
về Công nghệ tế bào thực vật - Viện Sinh học Nhiệt đới đã hỗ trợ kinh phí để thực hiện 
nghiên cứu này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Murthy H. N., Hahn E. J., Paek K. Y. - Adventitious roots and secondary metabolism, 
Chinese Journal of Biotechnology 24 (2008) 711- 716 
2. Shaheed U. R., Kevin Ch. and Hye H. Y. - Review on a traditional herbal medicine: 
Eurycoma longifolia Jack (Tongkat Ali): Its traditional uses, chemistry, evidence-based 
pharmacology and toxicology, Molecules 21 (2016) 331. 
Nguyễn Thị Dược, Đỗ Đăng Giáp, Trịnh Thị Hương, Trần Trọng Tuấn 
74 
3. Aziz S., Akeng G. and Kandasamy K. - Induction of somatic embryos from 
cotyledonary tissue of Tongkat Ali (Eurycoma longifolia), Journal of Tropical 
Medicinal Plants 1 (2000) 53-59. 
4. Hussein S., Ibrahim R., Kiong A. L. P., Fadzillah N. M. and Daud S. K. - Multiple 
shoots formation of an important tropical medicinal plant, Eurycoma longifolia Jack, 
Plant Biotechnology 22 (2005) 349-351. 
5. Mahmood M., Normi R. and Subramaniam S.- Optimization of suitable auxin 
application in arecalcitrant woody forest plant of Eurycoma longifolia (Tongkat Ali) 
for callus induction, African Journal of Biotechnology 9 (2010) 8417-8428. 
6. Đỗ Quốc Trường - Nghiên cứu quá trình phát sinh mô sẹo từ mẫu lá cây bá bệnh 
(Eurycoma longifolia Jack), Khóa luận tốt nghiệp Kỹ sư Công nghệ Sinh học, Đại Học 
Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh, 2012. 
7. Murashige T. and Skoog F. - A revised medium for rapid growth and bio assays with 
tobacco tissue culture, Physiologia plantarum 15 (1992) 473-497. 
8. Su K.C., Takaki T., and Petronczki M. - Targeting of the RhoGEF Ect2 to the 
equatorial membrane controls cleavage furrow formation during cytokinesis, 
Developmental Cell 21 (2011) 1104-1115. 
9. Nitsch C. - Induction in vitro de la floraison chezune plante de jours courts: Plumbago 
indica L., Annales des sciences naturelles Botanique, Paris 9 (1968) 1-91. 
10. Gautheret R. J. - Factors affecting differentiation of plant tissues grown in vitro. In: Cell 
Differentiation and Morphogenesis (Beermann W. ed.), North-Holland Publishing Co. 
Amsterdam (1966) 55-95. 
11. Mai Trường, Trần Thị Ngọc Hà, Phan Tường Lộc, Lê Tấn Đức, Trần Trọng Tuấn, Đỗ 
Đăng Giáp, Bùi Đình Thạch, Phạm Đức Trí, Nguyễn Đức Minh Hùng, Nguyễn Thị 
Thanh, Nguyễn Văn Kết, Trần Công Luận, Nguyễn Hữu Hổ. - Nghiên cứu nuôi cấy 
mô sẹo có khả năng sinh phôi và mô phôi soma sâm ngọc linh (Panax vietnamensis 
Ha et Grushv.), Tạp chí Công nghệ Sinh học 35 (3se) (2013) 145-157. 
12. Baque M.A., Hahn E.J. and Paek K.Y. - Induction mechanism of adventitious root 
from leaf explants of Morinda citrifolia as affected by auxin and light quality. In vitro 
Cellular and Developmental Biology - Plant 46 (2009) 71- 80. 
13. Bellamine J., Penel C., Greppin H . and Gaspar T. - Confirmation of the role of auxin 
and calcium in the late phases of adventitious root formation, Journal Plant Growth 
Regulation 26 (1998) 191-194. 
14. Yun S. L., Yang T. J., Park S. U., Bae J. H., Wu S. Q., Lim K. B. - Induction and 
proliferation of adventitious roots from Aloe vera leaf tissues for in vitro production of 
aloe-emodin, Plant Omics Journal 4 (4) (2011) 190-194. 
15. Baque M.A., Hahn E.J., Paek K.Y. - Growth, secondary metabolite production and 
antioxidant enzyme response of Morinda citrifolia adventitious root as affected by 
auxin and cytokinin, Plant Biotechnology Reports 4 (2010) 109-116. 
16. Dương Tấn Nhựt. - Công nghệ sinh học thực vật, Tập 1, Nhà xuất bản Nông nghiệp, 
TP.Hồ Chí Minh, 2007, tr. 103-130. 
Nguyễn Thị Dược, Đỗ Đăng Giáp, Trịnh Thị Hương, Trần Trọng Tuấn 
74 
3. Aziz S., Akeng G. and Kandasamy K. - Induction of somatic embryos from 
cotyledonary tissue of Tongkat Ali (Eurycoma longifolia), Journal of Tropical 
Medicinal Plants 1 (2000) 53-59. 
4. Hussein S., Ibrahim R., Kiong A. L. P., Fadzillah N. M. and Daud S. K. - Multiple 
shoots formation of an important tropical medicinal plant, Eurycoma longifolia Jack, 
Plant Biotechnology 22 (2005) 349-351. 
5. Mahmood M., Normi R. and Subramaniam S.- Optimization of suitable auxin 
application in arecalcitrant woody forest plant of Eurycoma longifolia (Tongkat Ali) 
for callus induction, African Journal of Biotechnology 9 (2010) 8417-8428. 
6. Đỗ Quốc Trường - Nghiên cứu quá trình phát sinh mô sẹo từ mẫu lá cây bá bệnh 
(Eurycoma longifolia Jack), Khóa luận tốt nghiệp Kỹ sư Công nghệ Sinh học, Đại Học 
Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh, 2012. 
7. Murashige T. and Skoog F. - A revised medium for rapid growth and bio assays with 
tobacco tissue culture, Physiologia plantarum 15 (1992) 473-497. 
8. Su K.C., Takaki T., and Petronczki M. - Targeting of the RhoGEF Ect2 to the 
equatorial membrane controls cleavage furrow formation during cytokinesis, 
Developmental Cell 21 (2011) 1104-1115. 
9. Nitsch C. - Induction in vitro de la floraison chezune plante de jours courts: Plumbago 
indica L., Annales des sciences naturelles Botanique, Paris 9 (1968) 1-91. 
10. Gautheret R. J. - Factors affecting differentiation of plant tissues grown in vitro. In: Cell 
Differentiation and Morphogenesis (Beermann W. ed.), North-Holland Publishing Co. 
Amsterdam (1966) 55-95. 
11. Mai Trường, Trần Thị Ngọc Hà, Phan Tường Lộc, Lê Tấn Đức, Trần Trọng Tuấn, Đỗ 
Đăng Giáp, Bùi Đình Thạch, Phạm Đức Trí, Nguyễn Đức Minh Hùng, Nguyễn Thị 
Thanh, Nguyễn Văn Kết, Trần Công Luận, Nguyễn Hữu Hổ. - Nghiên cứu nuôi cấy 
mô sẹo có khả năng sinh phôi và mô phôi soma sâm ngọc linh (Panax vietnamensis 
Ha et Grushv.), Tạp chí Công nghệ Sinh học 35 (3se) (2013) 145-157. 
12. Baque M.A., Hahn E.J. and Paek K.Y. - Induction mechanism of adventitious root 
from leaf explants of Morinda citrifolia as affected by auxin and light quality. In vitro 
Cellular and Developmental Biology - Plant 46 (2009) 71- 80. 
13. Bellamine J., Penel C., Greppin H . and Gaspar T. - Confirmation of the role of auxin 
and calcium in the late phases of adventitious root formation, Journal Plant Growth 
Regulation 26 (1998) 191-194. 
14. Yun S. L., Yang T. J., Park S. U., Bae J. H., Wu S. Q., Lim K. B. - Induction and 
proliferation of adventitious roots from Aloe vera leaf tissues for in vitro production of 
aloe-emodin, Plant Omics Journal 4 (4) (2011) 190-194. 
15. Baque M.A., Hahn E.J., Paek K.Y. - Growth, secondary metabolite production and 
antioxidant enzyme response of Morinda citrifolia adventitious root as affected by 
auxin and cytokinin, Plant Biotechnology Reports 4 (2010) 109-116. 
16. Dương Tấn Nhựt. - Công nghệ sinh học thực vật, Tập 1, Nhà xuất bản Nông nghiệp, 
TP.Hồ Chí Minh, 2007, tr. 103-130. 
Ảnh hưởng của chất điều hòa sinh trưởng lên sự tăng sinh và phát triển hình thái  
75 
ABSTRACT 
EFFECTS OF PLANT GROWTH REGULATORS ON PROLIFERATION 
AND MORPHOGENESIS OF CALLUS DERIVED FROM COTYLEDON 
OF EURYCOMA LONGIFOLIA 
Nguyen Thi Duoc1, Do Dang Giap1, Trinh Thi Huong2, Tran Trong Tuan1* 
1Institute of Tropical Biology, VAST 
2Ho Chi Minh City University of Food Industry 
*Email: trantrongtuan.com@gmail.com 
‘Ba benh’ or ‘Mat nhan’, which is a common name of Eurycoma longifolia in Vietnam, 
is a medicinal herb of the Simaroubaceae family. The main uses of this species are malaria 
treatment and physiological enhancement. There are many biologically active compounds in 
this plant, such as quassinoid, β-carboline alkaloid, canthin-6-1 alkaloid, tirucallane 
triterpene, squalene derivatives, eurycolactone, eurycomalactone, laurycolactone, biphenyl 
neolignan and steroids. Currently, many studies on secondary compounds and their uses 
have been done, however, studies on morphogenesis and soma embryogenesis are still 
limited. In this study, the effects of plant growth regulators on proliferation and 
morphogenesis of callus derived from cotyledon of Eurycoma longifolia were investigated. 
The results showed that calli proliferation cultured in 3.0 mg/L 2,4-D combined with 
2.0 mg/L TDZ MS medium reach the highest fresh weight (3.86 g/explant). Almost callus 
explants were cultured in MS medium supplemented with 2,4-D along with IBA also induce 
roots and somatic embryos. The results of this experiment showed that 0.5 mg/L 2,4-D 
combined with 4.0 mg/L IBA was suitable for root induction with 5.3 roots per explant. The 
medium supplemented with 3.0 mg/L IBA was the most suitable medium for somatic 
embryogenesis with 14.3 embryos per explant. 
Keywords: Auxin, Eurycoma longifolia, cotyledon, callus, morphogenesis. 

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_chat_dieu_hoa_sinh_truong_len_su_tang_sinh_va.pdf