Ảnh hưởng của các nhân tố tài chính đến việc lựa chọn chính sách kế toán để điều chỉnh lợi nhuận: minh chứng từ các doanh nghiệp sản xuất niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

TÓM TẮT

Nghiên cứu này phân tích sự ảnh hưởng của các nhân tố tài chính đến việc lựa

chọn chính sách kế toán để điều chỉnh lợi nhuận của các DN sản xuất niêm yết trên thị

trường chứng khoán Việt Nam. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 100 DN sản xuất

niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, giai đoạn 2011-2015. Áp dụng mô

hình Friedlan (1994), xác định biến phụ thuộc DA (Phần lợi nhuận dồn tích có thể

điều chỉnh) và các biến độc lập trong nghiên cứu, gồm: Quy mô DN (SIZE); Tỷ suất chi

phí lao động trên doanh thu thuần (LCRATE); Hệ số dự báo nguy cơ phá sản DN

(ZSCORE); Chi phí thuế thu nhập DN (TAXCOST); Thu nhập trên một cổ phiếu (EPS);

Hiệu quả hoạt động tài chính (PERF); Hệ số nợ (DEBT); Lợi nhuận dồn tích (TA). Kết

quả phân tích dữ liệu cho thấy, biến TAXCOST và ZSCORE có mối quan hệ ngược chiều

với biến phụ thuộc DA (DN có xu hướng vận dụng các chính sách kế toán để điều

chỉnh giảm, "che giấu" bớt lợi nhuận); các biến SIZE, LCRATE, EPS, PERF có mối quan

hệ thuận chiều với biến phụ thuộc DA (DN có xu hướng vận dụng các chính sách kế

toán để điều chỉnh tăng, "thổi phồng" lợi nhuận)

pdf 8 trang phuongnguyen 5700
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của các nhân tố tài chính đến việc lựa chọn chính sách kế toán để điều chỉnh lợi nhuận: minh chứng từ các doanh nghiệp sản xuất niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của các nhân tố tài chính đến việc lựa chọn chính sách kế toán để điều chỉnh lợi nhuận: minh chứng từ các doanh nghiệp sản xuất niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Ảnh hưởng của các nhân tố tài chính đến việc lựa chọn chính sách kế toán để điều chỉnh lợi nhuận: minh chứng từ các doanh nghiệp sản xuất niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 44.2018 112
KINH TẾ
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHÂN TỐ TÀI CHÍNH ĐẾN VIỆC LỰA CHỌN 
CHÍNH SÁCH KẾ TOÁN ĐỂ ĐIỀU CHỈNH LỢI NHUẬN: 
MINH CHỨNG TỪ CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT NIÊM YẾT 
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 
EFFECTS OF FINANCIAL FACTORS ON THE CHOICE OF ACCOUNTING POLICY TO ADJUST PROFITABILITY: 
EVIDENCE FROM MANUFACTURING ENTERPRISES LISTED ON VIETNAM STOCK MARKET 
Trương Thanh Hằng1,*, Nguyễn La Soa1
TÓM TẮT 
Nghiên cứu này phân tích sự ảnh hưởng của các nhân tố tài chính đến việc lựa 
chọn chính sách kế toán để điều chỉnh lợi nhuận của các DN sản xuất niêm yết trên thị 
trường chứng khoán Việt Nam. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 100 DN sản xuất 
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, giai đoạn 2011-2015. Áp dụng mô 
hình Friedlan (1994), xác định biến phụ thuộc DA (Phần lợi nhuận dồn tích có thể 
điều chỉnh) và các biến độc lập trong nghiên cứu, gồm: Quy mô DN (SIZE); Tỷ suất chi 
phí lao động trên doanh thu thuần (LCRATE); Hệ số dự báo nguy cơ phá sản DN 
(ZSCORE); Chi phí thuế thu nhập DN (TAXCOST); Thu nhập trên một cổ phiếu (EPS); 
Hiệu quả hoạt động tài chính (PERF); Hệ số nợ (DEBT); Lợi nhuận dồn tích (TA). Kết 
quả phân tích dữ liệu cho thấy, biến TAXCOST và ZSCORE có mối quan hệ ngược chiều 
với biến phụ thuộc DA (DN có xu hướng vận dụng các chính sách kế toán để điều 
chỉnh giảm, "che giấu" bớt lợi nhuận); các biến SIZE, LCRATE, EPS, PERF có mối quan 
hệ thuận chiều với biến phụ thuộc DA (DN có xu hướng vận dụng các chính sách kế 
toán để điều chỉnh tăng, "thổi phồng" lợi nhuận). 
Từ khóa: nhân tố tài chính; chính sách kế toán; điều chỉnh lợi nhuận 
ABSTRACT 
This study analyzes the influence of financial factors on the choice of accounting 
policy to adjust the profitability of listed firms on Vietnam stock market. The research 
data was collected from 100 manufacturing companies listed on Vietnam stock 
market in the period of 2011-2015. The Friedlan model (1994) was applied to 
identify dependent variable DA (adjustably accrued profit) and the independent 
variables including Size of enterprise (SIZE); Labor cost-to-revenue ratio (LCRATE); 
Risk Factors for Enterprise Bankruptcy (ZSCORE); Income Tax (TAXCOST); Earnings per 
share (EPS); Financial Performance (PERF); Debt ratio (DEBT); Accrued Profit (TA). The 
analysis results showed that the TAXCOST and ZSCORE variables were negatively 
correlated with dependent variable DA (firms tended to use accounting policies to 
reduce and "hide" profits); The variables SIZE, LCRATE, EPS, PERF had a positive 
relationship with the dependent variable DA (enterprises tended to apply accounting 
policies to increase and "overstate" profits). 
Keywords: financial factors; accounting policies; profit adjustment 
1Đại học Công nghiệp Hà Nội 
*E-mail: hangtruongthanh@gmail.com 
Ngày nhận bài: 9/11/2017 
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 17/01/2018 
Ngày chấp nhận đăng: 26/02/2018 
CHỮ VIẾT TẮT 
BCTC: Báo cáo tài chính 
DN: Doanh nghiệp 
HĐQT: Hội đồng quản trị 
1. GIỚI THIỆU 
Mọi DN hoạt động kinh doanh trên thị trường Việt Nam 
đều bình đẳng như nhau trong việc tuân thủ các quy định 
của Luật Kế toán, Chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán 
trong ghi nhận doanh thu, chi phí. Tuy nhiên, ở một số điều 
khoản chi tiết của Luật Kế toán, Chuẩn mực kế toán, chế độ 
kế toán và các văn bản hướng dẫn khác có liên quan, cho 
phép các DN có những lựa chọn chính sách kế toán khác 
nhau trong cách ghi nhận doanh thu, chi phí tùy theo mục 
tiêu của DN. Việc lựa chọn chính sách ghi nhận doanh thu, 
chi phí khác nhau sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô của 
chỉ tiêu lợi nhuận ghi nhận trong kỳ, làm cho chỉ tiêu lợi 
nhuận thay đổi (tăng lên hoặc giảm đi so với thực tế DN). 
Nghiên cứu này tập trung phân tích những nhân tố tài 
chính ảnh hưởng đến sự lựa chọn chính sách kế toán của 
các DN sản xuất niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam 
khi thực hiện hành vi điều chỉnh tăng, giảm lợi nhuận. Dựa 
vào kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số khuyến nghị 
hướng đến các đối tượng sử dụng thông tin trên BCTC để 
phát hiện, đánh giá mức độ điều chỉnh lợi nhuận của các 
DN, từ đó đưa ra các quyết định hợp lý, chính xác. 
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN 
Chính sách kế toán tại các DN là các nguyên tắc, 
phương pháp kế toán mà mỗi DN lựa chọn, xây dựng để 
tiến hành đo lường, công bố thông tin tài chính cho các đối 
tượng sử dụng thông tin bên trong và bên ngoài DN. Theo 
VAS 21, có ba vấn đề về chính sách kế toán được đề cập, đó 
là: (i) Chính sách kế toán là những nguyên tắc chung mà các 
DN bắt buộc phải tuân thủ, áp dụng khi hạch toán, lập báo 
cáo, như: nguyên tắc về cơ sở dồn tích, hoạt động liên tục, 
nguyên tắc giá gốc, nhất quán, phù hợp thận trọng và trọng 
yếu Trong quá trình vận dụng và tuân thủ các nguyên tắc 
này, một số nguyên tắc có thể ảnh hưởng đến thông tin cung 
ECONOMICS-SOCIETY 
Số 44.2018 ● Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 113 
cấp ra bên ngoài, ví dụ: việc thay đổi thời điểm ghi nhận chi phí 
doanh thu hay số kỳ phân bổ (dưới sự chi phối của nguyên tắc 
phù hợp) có thể ảnh hưởng tới lợi nhuận báo cáo. (ii) DN có thể 
lựa chọn cho riêng mình các phương pháp kế toán để đo 
lường, đánh giá và ghi nhận tình hình biến động vốn trong quá 
trình kinh doanh. Cụ thể: Trong sản xuất và tính giá thành, mỗi 
DN có đặc điểm, quy trình công nghệ khác nhau, việc lựa chọn 
phương pháp tính giá thành, phương pháp đánh giá sản phẩm 
dở dang sẽ cho kết quả khác nhau, từ đó ảnh hưởng tới giá 
vốn, lợi nhuận trong kỳ. Trong việc lựa chọn phương pháp tính 
giá hàng xuất kho, một số trường hợp khi giá thị trường biến 
động, các phương pháp này có thể trở thành công cụ để tác 
động tới chi phí, giá vốn và ảnh hưởng tới lợi nhuận. Trong việc 
lựa chọn phương pháp tính khấu hao, việc lựa chọn các phương 
pháp tính khấu hao sẽ ảnh hưởng tới việc ghi nhận chi phí, từ 
đó ảnh hưởng tới lợi nhuận DN. Vận dụng phương pháp kế toán, 
nguyên tắc kế toán trong ghi nhận doanh thu, chi phí, kế toán 
trên cơ sở dồn tích cho phép DN lựa chọn thời điểm ghi nhận 
doanh thu, chi phí và tuân thủ nguyên tắc phù hợp. Doanh thu 
và chi phí có thể được ghi nhận sớm hơn hoặc dịch chuyển về 
sau, điều này sẽ ảnh hưởng tới lợi nhuận của kỳ hiện hành, đây 
cũng chính là biểu hiện của việc vận dụng các chính sách kế 
toán để điều chỉnh lợi nhuận theo các mục tiêu của DN. (iii) Với 
những nội dung mà chuẩn mực kế toán chưa đề cập, DN có thể 
tự xây dựng và vận dụng các chính sách, ước tính kế toán cho 
công tác kế toán của DN trên cơ sở đảm bảo tính “phù hợp”. 
Các ước tính chỉ tiêu đã phát sinh, ví dụ: dự phòng phải thu khó 
đòi, dự phòng giảm giá chứng khoán kinh doanh, dự phòng 
tổn thất các khoản đầu tư, dự phòng giảm giá hàng tồn kho, 
phân bổ chi phí trả trước, doanh thu ghi nhận trước, doanh thu 
hợp đồng xây dựng dở dang. Các ước tính chỉ tiêu chưa phát 
sinh là dự phòng chi phí bảo hành, chi phí trích trước... Các DN 
có thể lợi dụng những ước tính kế toán như một công cụ đắc 
lực để điều chỉnh lợi nhuận. 
Như vậy, có thể thấy, thông qua việc vận dụng các 
phương pháp và ước tính kế toán, nhà quản lý, điều hành 
DN có thể “điều chỉnh” sự trung thực của thông tin kế toán 
theo hướng có lợi cho DN, hoặc cho cá nhân bản thân nhà 
điều hành, do đó lợi ích của các đối tượng sử dụng thông 
tin tài chính sẽ bị ảnh hưởng, có thể đưa ra các quyết định 
đầu tư không phù hợp. 
Đã có nhiều lý thuyết kinh tế, các nghiên cứu trước đây 
nhằm xem xét động cơ, yếu tố ảnh hưởng đến nhà quản lý 
(hoặc HĐQT) trong việc gây ảnh hưởng đến thông tin BCTC 
theo chiều hướng có lợi cho họ thông qua việc lựa chọn các 
chính sách kế toán cần thiết và phù hợp. Trong nghiên cứu 
này, tác giả vận dụng ba lý thuyết điển hình về vấn đề này, 
đó là: Lý thuyết đại diện, Lý thuyết kế toán thực chứng và 
Lý thuyết thông tin hữu ích. 
Lý thuyết đại diện (Agency Theory): xuất hiện đầu tiên 
trong những nghiên cứu về hành vi của người chủ và người 
làm thuê thông qua các hợp đồng. Đến năm 1976, lý thuyết 
đại diện mới được thể hiện rõ nét và nhận được sự quan 
tâm trong nhiều nghiên cứu đã công bố, điển hình là 
Jensen và Meckling (1976). 
Theo lý thuyết đại diện, mục tiêu lớn nhất mà chủ DN 
(các cổ đông) luôn mong muốn đó là tối đa hóa lợi nhuận 
của DN trên cơ sở giữ ổn định và tối thiểu hóa các khoản 
chi phí bao gồm cả thù lao trả cho nhà quản lý, từ đó chủ 
DN (các cổ đông) có được mức thu nhập cao từ cổ tức nhận 
được. Tuy nhiên, lợi nhuận của DN đạt được phụ thuộc 
hoàn toàn vào hành động, quyết định chiến lược và tài 
năng điều hành của nhà quản lý trong khi nhà quản lý lại 
có những mục tiêu khác nhau như: tối đa hóa sự giàu có 
của mình, giảm thiểu rủi ro cho cá nhân mình; sử dụng vị trí 
quản lý, điều hành của mình trong hiện tại để theo đuổi 
một vị trí mang lại nhiều lợi ích hơn từ các công ty khác, 
bằng cách sử dụng các quyết định chiến lược trong điều 
hành tạo ra sự tăng trưởng của DN trong ngắn hạn nhưng 
sẽ làm suy yếu mục tiêu tăng trưởng trong dài hạn. Chủ sở 
hữu DN (các cổ đông) luôn mong muốn vốn đầu tư được sử 
dụng hiệu quả nhất, tuy nhiên họ lại không dễ dàng tiếp 
cận được các thông tin tài chính một cách đầy đủ và kịp 
thời. Còn nhà quản lý (HĐQT), do dễ dàng nắm bắt kịp thời 
các thông tin tài chính của DN nên có thể lợi dụng việc điều 
hành DN để đạt được những lợi ích cho cá nhân hoặc kỳ 
vọng vào việc chủ sở hữu (các cổ đông) phải thừa nhận 
năng lực, kết quả điều hành của mình để có được mức 
thưởng cao. Do tồn tại sự "bất cân xứng" về thông tin này 
nên rất khó cho chủ DN (các cổ đông) có thể kiểm soát 
được các quyết định và hành động mà các nhà quản lý 
(HĐQT) thực hiện nhằm hướng tới mục tiêu của riêng họ. 
Để giảm thiểu những rủi ro cho DN do mục tiêu của nhà 
quản lý là khác biệt so với mục tiêu của chủ DN, lý thuyết đại 
diện cũng đề cập đến ba giải pháp đó là: (i) để tăng cường 
tính độc lập, khách quan của HĐQT, lý thuyết đại diện đưa ra 
giả thuyết, thành viên HĐQT DN gồm hai loại hình giám đốc, 
giám đốc độc lập được công ty thuê và tham gia vào thành 
phần HĐQT của công ty để kiểm soát các hoạt động và điều 
hành của Tổng giám đốc (CEO) và giám đốc không có tính 
độc lập tham gia vào thành phần của HĐQT, họ chính là 
nhân viên của công ty hoặc là các đối tác của công ty. (ii) 
Trao quyền sở hữu cổ phần cho nhà quản lý thông qua việc 
trả thù lao cho nhà quản lý bằng cổ phiếu, quyền chọn cổ 
phiếu và tiền thưởng thêm cho nhà quản lý do có thành tích 
trong điều hành tốt. (iii) Thực thi thị trường hóa quản lý DN 
với quan điểm nền tảng để tiếp tục công việc, nhà quản lý sẽ 
phải cố gắng điều hành DN đi đúng hướng mong đợi của các 
cổ đông và làm việc vì lợi ích của công ty. 
Lý thuyết kế toán thực chứng (Positive Accounting 
Theory - PAT): bắt đầu xuất hiện và phát triển mạnh mẽ vào 
cuối những năm 1960. Lý thuyết này sau đó đã được nghiên 
cứu, xây dựng và phát triển bởi Watts và Zimmerman vào 
năm 1978 qua nghiên cứu “Towards a Positive Theory of the 
Determination of Accounting Standards” và nghiên cứu 
"Positive Accounting Theory" vào năm 1986. PAT đã đưa ra 
ba giả thuyết để giải thích hành vi của các nhà quản lý tác 
động điều chỉnh thông tin trên BCTC. (i) Nhà quản lý điều 
hành DN rất nhạy cảm với mức gia tăng các khoản tiền 
thưởng cho quá trình điều hành DN. Vì vậy, mức tiền thưởng 
càng cao thì rủi ro để nâng cao lợi nhuận trong ngắn hạn 
nhằm có được khoản thưởng này của các nhà quản lý càng 
lớn. (ii) Có mối quan hệ giữa sự kiểm soát lợi nhuận của DN 
và tỷ suất nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu. Tỷ suất nợ phải trả 
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 44.2018 114
KINH TẾ
trên vốn chủ sở hữu càng cao, nhà quản lý có xu hướng kiểm 
soát càng chặt chẽ các luồng thu nhập của DN, điều này ảnh 
hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của DN theo góc độ tích cực. 
(iii) DN quy mô càng lớn, hiệu quả hoạt động càng cao thì 
càng được xã hội quan tâm, vì vậy các chi phí xã hội không 
mong muốn càng phát sinh nhiều hơn, ví dụ: chi phí khôi 
phục, bảo vệ môi trường, áp lực người lao động đòi tăng 
lương và điều kiện làm việc tốt hơn, các cơ quan quản lý nhà 
nước xem xét khả năng tăng thuế, tăng khoản thu đối với DN 
để giảm thâm hụt công quỹ. Vì vậy, nhà quản lý, điều hành 
của các DN lớn có thể tác động, điều chỉnh thông tin trên 
BCTC để công ty có mức lợi nhuận thấp nhằm giảm thiểu các 
chi phí xã hội phát sinh. 
Lý thuyết về thông tin hữu ích (Decision Usefulness 
Theory): trong những năm 1980, lý thuyết thông tin hữu ích 
được coi là nền tảng của các chuẩn mực kế toán quốc tế, là 
kim chỉ nam cho việc xây dựng các chỉ tiêu đánh giá và giúp 
nhà quản lý DN xác định rõ mục đích của hoạt động kế toán 
trong nền kinh tế thị trường. Các giả thuyết được đưa ra là: có 
sự bất cân xứng về thông tin giữa các đối tượng sử dụng 
thông tin tài chính của DN, mức độ tiếp cận thông tin tài chính 
của DN giữa các đối tượng là không như nhau. Các đối tượng 
bên trong DN thường có đầy đủ thông tin hơn so với các đối 
tượng bên ngoài DN. Cần đảm bảo mối quan hệ cân bằng 
giữa lợi ích và chi phí khi thực hiện các công việc kế toán. 
Mô hình đo lường mức độ điều chỉnh lợi nhuận của DN 
trên cơ sở vận dụng các chính sách kế toán: để xác định 
phần lợi nhuận dồn tích có thể điều chỉnh thông qua việc 
lựa chọn và vận dụng các chính sách kế toán có nhiều các 
mô hình khác nhau đã được các nhà nghiên cứu đưa ra, 
như: mô hình của DeAngelo (1986), Friedlan (1994), Jones 
(1991), Kothari và cộng sự (2005). 
Mô hình DeAngelo (1986), giả định rằng các thành 
phần biến kế toán không thể điều chỉnh (NDA) sinh ra là 
ngẫu nhiên và bằng với tổng số biến kế toán dồn tích TA 
của thời kỳ t-1, do đó sự thay đổi trong tổng số biến kế toán 
dồn tích (TA) giữa thời kỳ t và thời kỳ t-1 được giả định là do 
việc thực hiện các điều chỉnh kế toán. Như vậy, có thể thấy 
mô hình DeAngelo (1986) đo lường NDA dựa vào tổng đồn 
tích TA của năm liền trước trong kỳ ước tính. 
DAit = TAit - NDAit hay DAit = TAit - TAit-1 
Trong đó: NDAit là Phần dồn tích không thể điều chỉnh 
của công ty i, năm sự kiện t; DAit là Phần dồn tích có thể 
điều chỉnh của công ty i, năm sự kiện t; TAit-1 là Tổng dồn 
tích của công ty i, năm t-1. 
Theo DeAngelo (1986), biến kế toán dồn tích (TA) được 
giả định chính là lợi nhuận sau thuế trừ (-) dòng tiền thuần 
hoạt động kinh doanh. Phần biến kế toán có thể điều chỉnh 
(DA) chính là lợi nhuận điều chỉnh được thực hiện bởi những 
lựa chọn chính sách kế toán có cân nhắc của nhà quản trị. 
Mô hình Friedlan (1994), thay đổi từ mô hình gốc của 
DeAngelo (1986), thông qua việc đưa thêm vào mô hình 
biến doanh thu để kiểm soát sự thay đổi của mức độ hoạt 
động. Vì vậy, mô hình Friedlan (1994), có ưu điềm là đo 
lường phần DA chính xác hơn so với mô hình DeAngelo 
(1986). Việc sử dụng mô hình có tính đến yếu tố tăng 
trưởng của công ty dự đoán sẽ tốt hơn những mô hình bỏ 
qua yếu tố này. 
DAit = 1
1
it it
it it
TA TA
Sales Sales
Tr ... ; 0,05. Điều này có nghĩa là, DN hoạt động 
kinh doanh “an toàn” không nằm trong nguy cơ phá sản thì 
DN có xu hướng vận dụng các nguyên tắc, phương pháp và 
các ước tính kế toán để “che giấu” (điều chỉnh giảm) lợi 
nhuận, ngược lại, khi DN đang gặp vấn đề về tài chính, 
nguy cơ phá sản cao, DN sẽ điều chỉnh tăng lợi nhuận 
nhằm trấn an nhà đầu tư, các đơn vị cung cấp tín dụng, cổ 
đông và nỗ lực trong việc giải quyết tình hình tài chính. 
Như vậy, giả thuyết H6 được chấp nhận. 
Thu nhập trên một cổ phần với lợi nhuận dồn tích có 
thể điều chỉnh thông qua việc lựa chọn và vận dụng các 
chính sách kế toán. Biến EPS có mối quan hệ thuận chiều 
với DA (giá trị lợi nhuận dồn tích có thể điều chỉnh dựa trên 
sự vận dụng các chính sách kế toán) hệ số = 0,00002 với 
p-value = 0,002 < 0,05. Điều này có nghĩa là, thu nhập trên 
một cổ phần càng cao đồng nghĩa với kết quả hoạt động 
kinh doanh của DN càng lớn. Để tạo lòng tin đối với nhà 
đầu tư, thu hút thêm vốn đầu tư trong ngắn hạn hoặc 
Bảng 4. Kết quả chạy hồi quy theo phương pháp OLS 
Source SS df MS Number of obs = 118 
 F(8,109) = 16,32 
 Prob >F = 0,0000 
 R-squared = 0,5450 
 Adj R - squared = 0,5116 
 Root MSE = 0,1185 
Model 1,83328653 8 0.229160816 
Residual 1,53054507 109 0,014041698 
Total 3,3638316 117 0,028750697 
DA Coef Std.Err t p>ItI [95% Conf.Interval] 
TAXCOST -0,0373005 0,0123058 -3,03 0,003 -0,0616902 -0,0129108 
SIZE 0,0425211 0,0161861 2,63 0,010 0,0104408 0,0746014 
LCRATE 0,2133316 0,1044926 2,04 0,044 0,0062307 0,4204325 
PERF 1,075133 0,1616453 6,65 0,000 0,7547569 1,395508 
DEBT 0,0026931 0,0334759 0,08 0,936 -0,0636549 0,0690412 
ZSCORE -0,0442694 0,0098762 -4,48 0,000 -0,0638437 -0,0246951 
TA 0,0006596 0,0117335 0,06 0,955 -0,0225958 0,0239149 
EPS 0,0000207 0,000000662 3,12 0,002 0,000000754 0,0000338 
_cons -0,4034265 0,3513812 -1,15 0,253 -1,099853 0,2929996 
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 44.2018 118
KINH TẾ
mong muốn gia tăng uy tín, sự ảnh hưởng của DN, nhà 
quản lý, điều hành DN có thể thực hiện điều chỉnh tăng lợi 
nhuận thông qua các chính sách kế toán nhằm đảm bảo 
mức thu nhập trên một cổ phần đạt mức “hấp dẫn và thu 
hút”. Do đó, giả thuyết H8 được chấp nhận. 
5. KHUYẾN NGHỊ 
Dựa vào kết quả nghiên cứu trên, tác giả đề xuất một số 
khuyến nghị như sau: 
Một là, đối với nhà đầu tư, chủ nợ tín dụng cho vay 
Đối với nhà đầu tư, khi lựa chọn công ty để đầu tư, thường 
có tâm lý lựa chọn những công ty có quy mô lớn với tâm lý độ 
an toàn của vốn đầu tư sẽ cao hơn. Tâm lý về độ an toàn vốn 
khi đầu tư xuất phát từ quan điểm cho rằng, công ty lớn là 
những công ty có bề dày kinh nghiệm kinh doanh trên thị 
trường, sức mạnh tài chính cao và có ảnh hưởng nhất định 
trong lĩnh vực, ngành nghề mà công ty đang tham gia. Tuy 
nhiên, kết quả nghiên cứu này đã cho thấy, các công ty quy 
mô càng lớn thì khả năng họ điều chỉnh lợi nhuận càng cao vì 
họ có thể đàm phán với các công ty kiểm toán nhằm đảm bảo 
yếu tố "trung thực" của các thông tin trên BCTC đã công bố. 
Bên cạnh đó, các công ty quy mô lớn thường có uy tín và sức 
mạnh nhất định đối với xã hội, nhà quản lý của những công ty 
này có quyền lực quản trị lớn có thể áp đảo hệ thống kiểm 
soát nội bộ. Vì vậy, nhà đầu tư (i) cần đặc biệt chú ý bởi có thể 
sẽ gặp phải rủi ro trong đầu tư do hành vi điều chỉnh lợi nhuận 
đem lại. (ii) Chỉ số nguy cơ phá sản DN cũng là một yếu tố nhà 
đầu tư cần quan tâm khi quyết định đầu tư vốn vào DN niêm 
yết. Nếu DN niêm yết mà nhà đầu tư đang dự định đầu tư vốn 
có chỉ số nguy cơ phá sản nằm trong vùng nguy hiểm 
(1,81 <zscore < 2,99) nhiều khả năng DN sẽ thực hiện hành vi 
điều chỉnh lợi nhuận với sự vận dụng, hỗ trợ của các chính 
sách kế toán nhằm cải thiện tình hình tài chính, trấn an nhà 
đầu tư và thu hút thêm vốn để ổn định, khắc phục tình hình. 
(iii) Cần nhận biết dấu hiệu cảnh báo về hành vi điều chỉnh lợi 
nhuận thông qua chỉ tiêu hiệu quả hoạt động kinh doanh 
(ROA) và thu nhập trên một cổ phần (EPS). Hiệu quả hoạt 
động tài chính cao trong hoạt động kinh doanh, thu nhập trên 
một cổ phần đạt mức “hấp dẫn nhà đầu tư” có thể là một dấu 
hiệu về khả năng cao có sự điều chỉnh lợi nhuận do các công 
ty đang phải đối mặt với áp lực về uy tín, tăng giá cổ phiếu hay 
giữ vững giá trị DN vì vậy nhà đầu tư cần lưu ý điều này. 
Đối với các chủ nợ tín dụng, cho vay, cần chú trọng các 
thông tin về tình hình hoạt động kinh doanh của DN được 
cung cấp trên BCTC rất có thể bị điều chỉnh tùy theo mục 
tiêu DN theo đuổi. Vì vậy, bên cạnh việc phân tích các 
thông tin trên BCTC, cần quan tâm đến tính khả thi của 
phương án kinh doanh mà DN đề xuất khi vay vốn, hiệu 
quả của phương án đem lại chính là nguồn trả nợ của DN. 
Cần quan tâm đến uy tín trong tín dụng vay, trả nợ của DN 
trong thời gian 05 năm gần đây. 
Hai là, đối với DN niêm yết 
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã, đang và sẽ là một 
kênh thu hút vốn xã hội lớn phục vụ cho hoạt động sản xuất 
kinh doanh trong nền kinh tế. Bên cạnh kênh huy động vốn 
truyền thống là ngân hàng, DN cần xác định chiến lược huy 
động vốn lâu dài và bền vững thông qua thị trường chứng 
khoán Việt Nam. Cụ thể: (i) xây dựng kế hoạch đào tạo, 
chương trình tập huấn về kế toán tài chính nói chung, vấn đề 
điều chỉnh lợi nhuận nói riêng với sự tham gia của các chuyên 
gia nhằm nâng cao trình độ chuyên môn và sự hiểu biết cho 
nhà quản lý, cổ đông, người lao động trong công ty. (ii) Cung 
cấp cho nhà đầu tư vốn các công cụ, mô hình thực nghiệm cụ 
thể để phân tích thông tin, xét đoán hành vi điều chỉnh lợi 
nhuận, từ đó nhà đầu tư có thể tự nghiên cứu, thực hiện phân 
tích thông tin tài chính của công ty trước khi ra quyết định đầu 
tư. (iii) Cần chú ý các nhân tố ảnh hưởng tới điều chỉnh lợi 
nhuận trên cơ sở vận dụng các chính sách kế toán. Hiệu quả 
hoạt động tài chính, thu nhập trên một cổ phần là những chỉ 
tiêu quan trọng nhất nhà đầu tư quan tâm khi quyết định đầu 
tư vốn, tuy nhiên kết quả nghiên cứu đã chỉ rõ hiệu quả hoạt 
động tài chính cao, mức thu nhập trên một cổ phần “hấp dẫn” 
thì nhiều khả năng DN đã thực hiện điều chỉnh lợi nhuận 
thông qua giá cổ phiếu trên thị trường. Tuy nhiên, DN niêm 
yết cần nhìn nhận đây không phải là một giải pháp an toàn và 
hữu hiệu, việc thực hiện điều chỉnh lợi nhuận chỉ có ảnh 
hưởng trong ngắn hạn, DN không nên vì hướng tới những lợi 
ích trong ngắn hạn mà làm ảnh hưởng đến uy tín, hình ảnh và 
lợi ích lâu dài. Sự điều chỉnh lợi nhuận nếu bị nhà đầu tư phát 
hiện sẽ gây thiệt hại lớn cho DN hơn là lợi ích mà DN đã có 
thông qua hành vi này. Đối với DN có quy mô lớn, không nên 
lấy “sức mạnh”, tầm ảnh hưởng của mình trong kinh tế, chính 
trị để chi phối thông tin kinh tế tài chính của DN, thực hiện 
hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Xây dựng, phát triển DN ngày 
càng lớn mạnh là mục tiêu hướng tới chính đáng không chỉ 
của các công ty lớn nhưng nếu vì theo đuổi mục tiêu này, bất 
chấp các hành vi sai trái như hành vi điều chỉnh lợn nhuận thì 
hậu quả đem đến cho công ty sẽ trái ngược với mong đợi, mất 
đi niềm tin của các nhà đầu tư, hình ảnh, uy tín công ty bị sụp 
đổ, tạo ra một hệ lụy tiêu cực, ảnh hưởng xấu tới tất cả các bên 
có liên quan với công ty. (iv) Tăng cường và nâng cao hơn nữa 
tính độc lập của các thành viên HĐQT, ban kiểm soát và kiểm 
toán nội bộ của DN. 
Ba là, đối với các cơ quan quản lý Nhà nước 
Đối với Ủy ban chứng khoán Nhà nước, (i) cần ban hành bổ 
sung các quy định về chế tài xử phạt đối với các DN niêm yết 
trên thị trường chứng khoán nếu công ty công bố thông tin 
sai lệch quá nhiều so với kết quả đã được kiểm toán (hành vi 
chuyển lãi từ năm nay sang năm sau hay thực hiện gian lận 
để điều chỉnh tăng lợi nhuận). Thực tế hiện nay, đã có quy 
định DN niêm yết không được lỗ trong 03 năm liên tiếp, điều 
này tạo áp lực cho các DN thực hiện điều chỉnh lợi nhuận 
thông qua vận dụng các chính sách kế toán. Nhân tố hệ số 
nguy cơ phá sản DN trong nghiên cứu này đã giải thích rõ 
điều này. Việc cải thiện môi trường pháp lý sẽ tạo ra cơ sở hạ 
tầng tốt cho việc cải cách cơ chế quản trị, nhà đầu tư sẽ tích 
cực hơn, yên tâm hơn khi tham gia thị trường đầu tư. (ii) Tiếp 
tục phối hợp với Hiệp hội kiểm toán viên hành nghề Việt 
Nam (VACPA) nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kiểm 
toán đối với công ty niêm yết, hướng tới xây dựng hệ thống 
tiêu chí đánh giá, xếp loại các công ty kiểm toán hàng năm 
và công bố rộng rãi trên các kênh thông tin về chứng khoán 
để các công ty niêm yết lựa chọn. (iii) Sớm thúc đẩy việc thực 
ECONOMICS-SOCIETY 
Số 44.2018 ● Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 119 
hiện soát xét BCTC theo quý nhằm nâng cao tính minh bạch 
trong công bố thông tin, tăng cường công tác phân tích, 
đánh giá thị trường hỗ trợ nhà đầu tư có thêm các thông tin 
trước khi ra quyết định đầu tư vốn. 
Đối với Bộ Tài chính, (i) tiếp tục xây dựng, cập nhật và 
hoàn thiện hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam theo 
hướng thống nhất; quy định chặt chẽ, cụ thể việc sử dụng 
các ước tính kế toán hay việc lựa chọn các phương pháp kế 
toán nhằm hạn chế tính chủ quan của người làm công tác 
quản lý, công tác kế toán. (ii) Có quy định và hướng dẫn cụ 
thể về việc các DN niêm yết phải trình bày chi tiết, giải trình 
rõ ràng căn cứ, cơ sở tính toán việc vận dụng các phương 
pháp kế toán, nguyên tắc kế toán, ước tính kế toán trên 
thuyết minh BCTC. (iii) Thường xuyên kiểm tra, giám sát và 
công bố danh sách các công ty kiểm toán có đủ năng lực, 
uy tín, đảm bảo chất lượng kiểm toán, ban hành quy định 
về xử phạt hành chính hoặc rút giấy phép hoạt động đối 
với các công ty kiểm toán độc lập nếu “sản phẩm” mà họ đã 
kiểm toán bị phát hiện là không trung thực. 
Đối với cơ quan thuế, cần nghiên cứu và tìm hiểu về các 
nhân tố ảnh hưởng đến hành vi của nhà quản lý trong việc 
lựa chọn và sử dụng các chính sách kế toán để điều chỉnh 
lợi nhuận, từ đó tập trung nguồn lực kiểm tra các DN có 
động cơ khai giảm lợi nhuận, khai giảm thuế thu nhập phải 
nộp, đảm bảo thu đúng, thu đủ số thuế phải nộp của các 
DN theo Luật Thuế hiện hành. 
Bốn là, đối với các công ty kiểm toán 
(i) Cần tìm hiểu khách hàng (các DN niêm yết) trước khi 
bắt đầu kiểm toán nhằm thu thập những thông tin cần thiết 
phục vụ cho việc xét đoán các động cơ của khách hàng, qua 
đó biết được xu hướng điều chỉnh lợi nhuận của DN (điều 
chỉnh tăng hay giảm lợi nhuận) bằng việc lựa chọn chính 
sách kế toán, từ đó thiết kế các thủ tục kiểm toán thích hợp. 
Ví dụ: một DN sản xuất niêm yết trên thị trường có kết quả 
kinh doanh bị lỗ trong 02 năm trước đó sẽ có động cơ để vận 
dụng các chính sách kế toán điều chỉnh tăng lợi nhuận, tránh 
lỗ trong năm hiện tại, tránh bị hủy niêm yết theo quy định. 
Dựa vào thông tin này, kiểm toán viên sẽ xây dựng các thủ 
tục kiểm toán phù hợp và hiệu quả. 
(ii) Đối với kiểm toán các ước tính kế toán, cần có sự 
tham gia của các kiểm toán viên có kinh nghiệm và trình độ 
chuyên môn cao. Do bản chất của ước tính kế toán mang 
tính chủ quan cao, vì vậy đây là một công cụ hữu hiệu và 
quan trọng mà DN sẽ sử dụng để điều chỉnh lợi nhuận, làm 
ảnh hưởng đến tính trung thực, hợp lý của các thông tin 
trình bày trên BCTC. Các thủ tục kiểm toán để kiểm toán 
các ước tính kế toán đã được quy định rõ trong VSA 540 
“Kiểm toán các ước tính kế toán”. 
Năm là, đối với các đơn vị đào tạo 
Bên cạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng 
lực chuyên môn cần phải có nhận thức đúng đắn, nghiêm 
túc đối với xã hội trước các hành vi vi phạm pháp luật về 
kinh tế tài chính, hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các DN 
nói chung, DN niêm yết nói riêng. Cụ thể: (i) Đưa các kiến 
thức về hành vi điều chỉnh lợi nhuận và trong chương trình 
học khối ngành kinh tế ở bậc đại học để nâng cao trình độ, 
hiểu biết và nhận thức cho nhà đầu tư tiềm năng trong 
tương lai. (ii) Tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn 
để cung cấp thêm các công cụ phân tích, đánh giá DN, thị 
trường cho nhà đầu tư và các đối tượng quan tâm. (iii) Hỗ 
trợ và có định hướng cụ thể cho các DN để hoàn thiện, 
nâng cao chất lượng quy trình quản trị, điều hành công ty. 
6. KẾT LUẬN 
Chuẩn mực kế toán cho phép các DN có quyền lựa chọn 
chính sách kế toán để áp dụng cho phù hợp với đặc điểm 
của DN, sự lựa chọn chính sách kế toán thường xuất phát từ 
nhiều nhân tố, động cơ và mục đích khác nhau từ phía cá 
nhân và DN. Tuy nhiên, khi lựa chọn các chính sách kế toán 
ghi chép doanh thu, chi phí, DN phải cân nhắc và xem xét sự 
ảnh hưởng của việc lựa chọn đó đến chất lượng và tính trung 
thực của thông tin trên BCTC. Bên cạnh đó, các đối tượng sử 
dụng thông tin trên BCTC cần có nhận thức rõ về động cơ, 
hành vi điều chỉnh lợi nhuận có thể có ở mỗi DN, qua đó có 
cái nhìn khách quan và rõ ràng hơn về thông tin trên BCTC 
của DN trước khi đưa ra các quyết định phù hợp./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Tài Chính (2015), Báo cáo tình hình thị trường chứn khoán năm 2014 
và nhiệm vụ, giải pháp phát triển thị trường 2015. 
2. Hoàng Trọng, Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2013), Thống kê ứng dụng trong 
nghiên cứu kinh tế xã hội, Nhà xuất bản Thống kê Hà Nội. 
3. Huỳnh Thị Cẩm Nhung (2014), Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sự 
lựa chọn chính sách kế toán của các DN xây lắp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 
4. Huỳnh Thị Vân (2012), Nghiên cứu việc điều chỉnh lợi nhuận ở các công ty 
cổ phần trong năm đầu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Luận văn 
thạc sĩ quản trị kinh doanh, Đại học Đà Nẵng. 
5. Nguyễn Quang Dong, Nguyễn Thị Minh (2012), Giáo trình Kinh tế lượng, 
Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 
6. Nguyễn Thị Phương Hồng, Nguyễn Thị Kim Oanh (2014), Các nhân tố 
ảnh hưởng đến việc lựa chọn chính sách kế toán tại các DN Việt Nam hiện nay, Tạp 
chí Thị trường tài chính-Tiền tệ số 13.07.2014. 
7. Nguyễn Thị Uyên Phương (2014), Nghiên cứu việc điều chỉnh lợi nhuận 
trong trường hợp phát hành thêm cổ phiếu của các công ty niêm yết trên thị trường 
chứng khoán Việt Nam, Luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh, Đại học Đà Nẵng. 
8. Trần Đình Khôi Nguyên (2010), Bàn về mô hình các nhân tố ảnh hưởng 
đến vận dụng chế độ kế toán trong các DN vừa và nhỏ, Tạp chí Khoa học và Công 
nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 5 (40). 
9. Trần Đình Khôi Nguyên (2012), Bàn về chính sách kế toán trong DN, Tạp 
chí Phát triển kinh tế, số 260. 
10. Dechow P.M., Sloan R and Sweeney A. (1995). Detecting earnings 
management. The Accounting Review. 
11. Jensen, MC., Meckling, W.H., (1976). Theory of firm: Managerial 
Behavior, Agency Costs, and Ownership Structure. Journal of Financial Economics. 
12. Kothari S P Leone A J and Wasley C E (2005). Performance Matched 
Discretionary Accruals. Journal of Accounting and Economics. 
13. Watts, R. and J. Zimmerman (1978), Towards a Positive Theory of the 
Determination of Accounting Standards, The Accounting Review 53 (January). 
14. Watts, R. and J. Zimmerman (1986), Positive Accounting Theory, 
Edgewood Cliffs, NJ: Prentice Hall. 

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_cac_nhan_to_tai_chinh_den_viec_lua_chon_chinh.pdf