An toàn và hiệu quả của đốt nhân giáp lớn lành tính bằng vi sóng (MWA)

Mở đầu: Đa số các nhân giáp là lành tính và không cần điều trị, tuy nhiên một vài nhân giáp lớn (≥ 3cm)

cần phải điều trị vì những lý do như thẩm mỹ hay vì các triệu chứng lâm sàng. Các phương pháp điều trị trước

đây là phẫu thuật và liệu pháp hormon tuyến giáp, tuy nhiên cả hai phương pháp này đều có những hạn chế

của nó(3). Bên cạnh sóng cao tần, vi sóng là một phương pháp sử dụng nhiệt phá hủy làm hoại tử mô tuyến

giáp và đã được áp dụng cho các loại tổn thương lành tính cũng như ác tính của tuyến giáp và cho kết quả tốt.

Mục tiêu: Chúng tôi xác định tính an toàn và hiệu quả của kỹ thuật đốt các nhân giáp lớn lành tính bằng

vi sóng.

Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi mô tả loạt 40 trường hợp nhân giáp lớn lành tính được đốt bằng

vi sóng tại khoa Ngoại Lồng Ngực bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 4 năm 2018 đến tháng 9 năm 2019.

Kết quả: có 31 nữ, 9 nam với tuổi trung bình 46 tuổi. Kích thước trung bình của đường kính lớn nhất nhân

giáp là 44mm, và thể tích trung bình là 22ml. Có 4 trường hợp (10%) có biến chứng nhẹ. Tỉ lệ giảm thể tích

trung bình lần lượt là 75,1; 85,2; 96,4% sau 3, 6 và 12 tháng. Điểm triệu chứng và điểm thẩm mỹ trung bình

ước tính từ 8,0 và 2,8 (trước điều trị) đến 2,8 và 1,3 (ở thời điểm sau 12 tháng điều trị). Có 13 trường hợp

(31%) cần can thiệp vi sóng lần thứ hai.

Kết luận: Đốt bằng vi sóng là an toàn, hiệu quả và là lựa chọn tốt trong điều trị nhân giáp lớn lành tính.

Cần nhiều nghiên cứu với số lượng lớn hơn và theo dõi dài hơn để đánh giá thêm về tính an toàn và hiệu quả

của kỹ thuật này

pdf 7 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "An toàn và hiệu quả của đốt nhân giáp lớn lành tính bằng vi sóng (MWA)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: An toàn và hiệu quả của đốt nhân giáp lớn lành tính bằng vi sóng (MWA)

An toàn và hiệu quả của đốt nhân giáp lớn lành tính bằng vi sóng (MWA)
ĐẦU VÀ CỔ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
34 
AN TOÀN VÀ HIỆU QUẢ CỦA ĐỐT NHÂN GIÁP LỚN LÀNH TÍNH 
BẰNG VI SÓNG (MWA) 
HUỲNH QUANG KHÁNH1 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Đa số các nhân giáp là lành tính và không cần điều trị, tuy nhiên một vài nhân giáp lớn (≥ 3cm) 
cần phải điều trị vì những lý do như thẩm mỹ hay vì các triệu chứng lâm sàng. Các phương pháp điều trị trước 
đây là phẫu thuật và liệu pháp hormon tuyến giáp, tuy nhiên cả hai phương pháp này đều có những hạn chế 
của nó(3). Bên cạnh sóng cao tần, vi sóng là một phương pháp sử dụng nhiệt phá hủy làm hoại tử mô tuyến 
giáp và đã được áp dụng cho các loại tổn thương lành tính cũng như ác tính của tuyến giáp và cho kết quả tốt. 
Mục tiêu: Chúng tôi xác định tính an toàn và hiệu quả của kỹ thuật đốt các nhân giáp lớn lành tính bằng 
vi sóng. 
Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi mô tả loạt 40 trường hợp nhân giáp lớn lành tính được đốt bằng 
vi sóng tại khoa Ngoại Lồng Ngực bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 4 nĕm 2018 đến tháng 9 nĕm 2019. 
Kết quả: có 31 nữ, 9 nam với tuổi trung bình 46 tuổi. Kích thước trung bình của đường kính lớn nhất nhân 
giáp là 44mm, và thể tích trung bình là 22ml. Có 4 trường hợp (10%) có biến chứng nhẹ. Tỉ lệ giảm thể tích 
trung bình lần lượt là 75,1; 85,2; 96,4% sau 3, 6 và 12 tháng. Điểm triệu chứng và điểm thẩm mỹ trung bình 
ước tính từ 8,0 và 2,8 (trước điều trị) đến 2,8 và 1,3 (ở thời điểm sau 12 tháng điều trị). Có 13 trường hợp 
(31%) cần can thiệp vi sóng lần thứ hai. 
Kết luận: Đốt bằng vi sóng là an toàn, hiệu quả và là lựa chọn tốt trong điều trị nhân giáp lớn lành tính. 
Cần nhiều nghiên cứu với số lượng lớn hơn và theo dõi dài hơn để đánh giá thêm về tính an toàn và hiệu quả 
của kỹ thuật này. 
Từ khóa: Nhân giáp lớn lành tính, đốt vi sóng, tỉ lệ giảm thể tích, điểm triệu chứng, điểm thẩm mỹ. 
SUMMARY 
Safety and efficiency of microwave ablation (MWA) for large benign thyroid nodules 
Most thyroid nodules are benign and do not require treatment, but large (≥ 3cm) benign thyroid nodules 
usually cause clinical symptoms or cosmetic concerns and therefore require treatment. Traditionally the 
treatment for benign thyroid nodules consists of surgery and levothyroxine medication, however both have 
many drawbacks. Minimally invasive surgical alternatives are becoming more attractive for the treatment of 
thyroid nodules. Beside Radiofrequency ablation (RFA), Microwave ablation (MWA) is a method of thermal 
ablation to induce thyroid tissue necrosis and has been applied to various benign and malignant tumors with 
good results. 
Objectives: We determine the safety and efficacy of Microwave Ablation procedure to treat large benign 
thyroid nodules. 
Materials and Methods: We report a series of 40 large benign thyroid nodules patients who underwent 
Microwave Ablation for treatment at Thoracic Surgery Department Cho Ray hospital from Apr - 2018 to Sep - 
2019. 
Results: There were 31 females and 9 males, with a median age of 46 years. The medians of largest 
diameter and volume of the nodules were 40mm and 22ml. Four (10%) minor complications were observed. 
The mean Volume reduction ratio (VRR) was 75.1, 85.2, and 96.4% after 3, 6, and 12 months. The mean 
symptom and cosmetic scores dropped from 8.0 and 2.8 (before treatment) to 2.8 and 1.3 (at 12 months), 
respectively. Thirteen nodules (31%) require two MWA sessions. 
Conclusions: MWA is safe, effective and can be a good option to treat large benign thyroid nodules. More 
1
 TS.BS. Khoa Ngoại Lồng ngực - Bệnh viện Chợ Rẫy 
ĐẦU VÀ CỔ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
35 
studies with large dataset and long follow - up are needed to improve its safety and efficacy. 
Key words: Large benign thyroid nodules; Microwave ablation (MWA); Volume reduction ratio; Symptom 
score; Cosmetic score. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trên thế giới, tỉ lệ người dân trong cộng đồng 
có nhân giáp từ 4% - 7%, tỉ lệ này có thể tĕng hơn 
10 lần nếu khảo sát bằng siêu âm và bệnh thường 
gặp ở nữ giới nhiều hơn nam. Tại Việt Nam, tỷ lệ 
bệnh thay đổi theo từng địa phương. Đa số bệnh 
nhân đến khám bệnh tuyến giáp có biểu hiện lâm 
sàng là bướu giáp đơn nhân hay bướu giáp đa nhân 
và một phần trong số này được chỉ định điều trị 
ngoại khoa. 
Với bệnh bướu giáp lành tính, nếu trước kia để 
điều trị triệt để thường áp dụng phẫu thuật hoặc 
phẫu thuật nội soi để lấy nhân giáp ra thì nay, với kỹ 
thuật mới, cho phép bác sĩ điều trị bằng sóng cao 
tần (RF), vi sóng (MW). Đây là phương pháp ít xâm 
lấn để điều trị nhân giáp lành tính. Khi có chỉ định áp 
dụng kỹ thuật này, giúp cho người bệnh tránh biến 
chứng, hạn chế tái phát. 
Các phương pháp thay thế phẫu thuật xâm lấn 
tối thiểu đang trở nên hấp dẫn hơn để điều trị nhân 
giáp. Những cải tiến trong công nghệ đốt làm giảm 
bệnh suất và tử vong, và khả nĕng điều trị bệnh 
nhân trong môi trường ngoại trú là tốt cho bệnh nhân 
và hệ thống chĕm sóc sức khỏe. 
Thực hiện thủ thuật đốt có hướng dẫn bằng 
hình ảnh đang trở thành một lựa chọn tốt cho bệnh 
nhân vì chi phí tương đối thấp, khả nĕng đốt đúng 
hết tổn thương được kiểm soát và độc tính tương 
đối thấp. Mặc dù kỹ thuật đốt bằng vi sóng dưới 
hướng dẫn bằng hình ảnh đã được nghiên cứu rộng 
rãi để điều trị các khối u thận, gan và phổi, nhưng 
chưa có nhiều báo cáo kỹ thuật này ở nhân giáp lớn. 
Toàn bộ quy trình này diễn ra trong khoảng 30 
phút. Điều trị nhân giáp bằng vi sóng được ứng dụng 
trong các trường hợp nhân giáp lớn lành tính có 
triệu chứng (có đau vùng cổ, cảm giác khó chịu, khó 
nói, ho, ảnh hưởng thẩm mỹ hoặc nhân độc tuyến 
giáp), ung thư tuyến giáp tái phát, ung thư tuyến 
giáp không mổ được. 
Ngày nay, ứng dụng vi sóng được coi là một 
bước tiến mới trong điều trị bướu giáp. Bởi lẽ 
phương pháp này mang lại nhiều ưu điểm vượt trội 
so với phương pháp mổ thông thường: Không cần 
gây mê, độ an toàn cao, thời gian điều trị và hồi 
phục nhanh chóng, bệnh nhân có thể trở về ngay 
sau khi điều trị, nguy cơ tái phát rất thấp(3). 
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả, khả thi 
(sự an toàn) của thủ thuật đốt nhân giáp bằng vi 
sóng (MW). 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu tiến cứu mô tả hàng loạt ca. 
Bệnh nhân có bướu giáp nhân lành tính: đơn 
nhân, đa nhân, một thùy hay cả hai thùy. 
Thời gian nghiên cứu 
17 tháng, từ tháng 4/2018 đến tháng 9 nĕm 
2019. Tại khoa Ngoại Lồng Ngực bệnh viện Chợ 
Rẫy. 
Tiêu chí chọn mẫu 
Bệnh nhân có bướu giáp đơn hay đa nhân. 
Bướu có đường kính nhỏ nhất ≥3cm, lớn nhất 
 ≤ 8cm (dựa vào siêu âm). 
Xét nghiệm chức nĕng tuyến giáp trước mổ: 
bình giáp. 
Thực hiện FNA nhân giáp dưới hướng dẫn siêu 
âm 2 lần. Hoặc sinh thiết lõi nhân giáp dưới hướng 
dẫn siêu âm có kết quả lành tính. 
Bệnh nhân đồng ý tham gia. 
Tiêu chí loại trừ 
Bướu thòng trung thất. 
Tiến hành thủ thuật RFA, MWA 
Vô cảm, bệnh nhân được gây tê tại chỗ. 
Tư thế bệnh nhân nằm ngửa, độn gối ở phía 
sau vai - cổ. 
Kíp thực hiện gồm 1 phẫu thuật viên và 1 điều 
dưỡng dụng cụ. 
Dàn máy MW; siêu âm đặt phía trên, đối diện 
với phẫu thuật viên chính, bàn dụng cụ đặt phía 
dưới chân bệnh nhân. 
Các bước cơ bản trong thực hành MWA tuyến 
giáp 
Thực hiện sinh thiết để xác định loại bướu 
(FNA). 
Xác định tình trạng bướu (lành, ác) qua siêu âm. 
Xét nghiệm hóc môn tuyến giáp FT3, FT4, TSH. 
ĐẦU VÀ CỔ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
36 
Cho thuốc giảm đau hoặc an thần đối với một 
vài bệnh nhân lo âu. 
Gây tê tại chỗ đối với vị trí đưa electrode vào và 
bao tuyến giáp. 
Bóc tách nước được thực hiện bằng cách bơm 
glucose 5% dưới da nhằm ngừa bỏng da hoặc bóc 
tách các cấu trúc lân cận gần vị trí đốt. 
Sử dụng siêu âm doppler để xác định bó mạch 
cảnh trong và các mạch máu có thể chọc phải. 
Đưa đầu đốt chuyên biệt MWA vào dưới hướng 
dẫn siêu âm. 
Sử dụng túi nước lạnh đặt trên da bệnh nhân 
để làm lạnh các cấu trúc lân cận. 
Thực hiện MWA nhân giáp và theo dõi bằng 
siêu âm. 
Các cách tiếp cận tuyến giáp đốt MWA 
Tiếp cận xuyên qua eo giáp. 
Tiếp cận đường bên. 
Tiếp cận đường dọc. 
Theo dõi và đánh giá kết quả 
Đánh giá sự an toàn (kết quả sớm) 
Đánh giá dựa vào tỷ lệ các biến chứng, tử vong 
khi thực hiện thủ thuật, các tiêu chuẩn biến chứng 
được phân mức độ dựa theo Nghiên cứu đa trung 
tâm báo cáo nĕm 2012(2,5). 
Các biến chứng lớn 
Thay đổi giọng nói, vỡ u, tổn thương đám rối 
cánh tay, suy giáp. 
Các biến chứng nhỏ 
Tụ máu, bỏng da, ói. 
Đánh giá hiệu quả của phương pháp (kết quả 
lâu dài) 
Đánh giá hiệu quả phá hủy khối u. 
Chúng tôi đánh giá hiệu quả của việc đốt phá 
hủy khối nhân giáp dựa trên trên siêu âm kiểm tra(6) 
đánh giá ở các thời điểm 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng 
và 12 tháng như sau. 
Bảng 1. Tiêu chuẩn đánh giá kết quả(5) 
Các đáp ứng Kích thước trên siêu âm 1 tháng Kích thước trên siêu âm 6 tháng Kích thước trên siêu âm 12 tháng 
Hoàn toàn (2) 
Sang thương < 25% 
so với kích thước ban đầu 
Sang thương < 50% 
so với kích thước ban đầu 
Sang thương < 80% 
so với kích thước ban đầu 
Một phần (1) Giảm ít hơn 15 - 25% đường kính lớn 
Hoại tử trung tâm hoặc hang trung tâm 
với đậm độ dịch 
Giảm < 50% 
so với kích thước ban đầu 
Không thay 
đổi (3) Giảm ít hơn < 15% đường kính lớn 
Biểu hiện u đặc, không hoại tử hoặc tạo 
hang ở trung tâm Không thay đổi 
Siêu âm được chỉ định mỗi 3, 6, 12 tháng, bệnh 
nhân được đánh giá: tái phát tại chỗ, nhân giáp mới, 
bệnh tiến triển trong 1 nĕm. Xác định tái phát hay 
khả nĕng điều trị hết nhân giáp. 
Đánh giá hiệu quả dựa trên 
- Lâm sàng: Đánh giá dựa trên thang điểm triệu 
chứng (symptom scores: mức 0 - 10) và thang điểm 
thẫm mỹ (cosmetic scores: mức 0, 1, 2, 3). 
- Siêu âm: tỉ lệ giảm thể tích bướu (VRR: 
volume reduction ratio. VRR = (V0 - Vx)/V0 (VRR: tỉ lệ 
% giảm thể tích; V0: Thể tích ban đầu trước khi đốt; 
Vx: thể tích ở các thời điểm theo dõi; Tất cả đều đo 
dưới siêu âm). 
- Đánh giá số lần can thiệp MWA. 
Chỉ định MWA lần 2, lần 3 
Đáp ứng không hoàn toàn. 
Phần mô đốt còn lại >20% (tùy vị trí, kích thước 
bướu, để an toàn, chỉ đốt đạt 80 - 100% cho lần 
đầu tiên). 
Tái phát tại chỗ 
Tái phát tại chỗ đốt, tái phát trong thùy, trên 
siêu âm. Bởi vì sự tạo sẹo tại chỗ đốt, siêu âm sau 6 
tháng sẽ đánh giá chính xác nhất. 
Tái phát vùng 
Nhân giáp mới ở thùy khác hoặc vùng khác 
cùng thùy quan sát được trên siêu âm. 
Tử vong 
Tỷ lệ sống còn. 
ĐẦU VÀ CỔ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
37 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm nhóm nghiên cứu 
Trong thời gian 17 tháng từ tháng 4 nĕm 2018 
đến tháng 9 nĕm 2019, có 40 bệnh nhân được 
nghiên cứu trong đó: 
Giới: Có 31 nữ (78%), 9 nam (22%). 
Tuổi trung bình 46 tuổi, nhỏ nhất 24 tuổi, lớn 
nhất 61 tuổi. 
Thời gian từ khi phát hiện bướu đến khi điều trị 
trung bình là 6 tháng, thay đổi từ 3 đến 24 tháng. 
Có 3 trường hợp (8%) có bệnh kèm theo như: 
ghép thận, cao huyết áp. 
Có 4 trường hợp (10%) đã được làm thủ thuật 
RFA trước đó, tuy nhiên thể tích bướu không gảm đi 
đáng kể. 
Tất cả các trường hợp bệnh nhân đều có than 
phiền về bướu. Trong thang điểm triệu chứng 
với trung bình là 8 mức độ thấp nhất là 5, nhiều nhất 
là 10. 
Thêm vào đó, tất cả bệnh nhân đều được đánh 
giá điểm thẩm mỹ mức 2 có 8 trường hợp (20%), 
hay mức 3 trong thang điểm thẩm mỹ có 32 trường 
hợp (80%). Không có trường hợp nào ở mức 0, 1. 
Đặc điểm nhân giáp 
Có 42 nhân giáp với kích thước trung bình của 
đường kính lớn nhất là 44mm, thể tích trung bình 
22ml. Một nửa trong số đó là nhân hỗn hợp hay có 
một phần nang. Về độ rắn, phần lớn được phân loại 
là loại rắn và hỗn hợp (tương ứng 48% và 50%). Chỉ 
có 1 trường hợp (2%) là nang giáp đơn thuần. Hầu 
hết nhân giáp (71%) là ở thùy trái. Không có trường 
hợp nào có tĕng sinh mạch máu ở nhân giáp. 
Số lượng nhân giáp được điều trị: 1 nhân 38 
trường hợp (95%). 2 nhân 2 trường hợp (5%). 
Tính an toàn 
Trong số 40 bệnh nhân được điều trị bằng vi 
sóng, có 4 trường hợp (10%) có biến chứng nhẹ sau 
đốt: 1 trường hợp có bỏng da tại vị trí đâm kim vào 
đốt, 3 trường hợp khác có bỏng da tại vị trí nhân 
giáp được đốt. Nhưng tất cả các trường hợp này 
đều hồi phục sau 1 tuần điều trị và không tạo thành 
sẹo. Không có trường hợp nào có biến chứng nặng. 
Tính hiệu quả 
Thời gian theo dõi trung bình 12 tháng, ngắn 
nhất 1 tháng, dài nhất 18 tháng. 
Bảng 2. Hiệu quả MWA ở mỗi thời điểm trong quá trình theo dõi 
Kết quả Trước MWA 1 tháng 3 tháng 6 tháng 12 tháng 
Tỉ lệ giảm thể tích (%) 0 (0; 0) 46.7 (43.7; 50.0) 75.1 (70.7; 79.6) 85.2 (80.8; 89.6) 96.4 (93.5; 99.3) 
Điểm triệu chứng 8.0 (7.7; 8.3) 6.0 (5.8; 6.3) 4.1 (3.8; 4.4) 3.6 (3.3; 3.9) 2.8 (2.5; 3.0) 
Điểm thẩm mỹ 2.8 (2.6; 3.0) 2.6 (2.5; 2.7) 2.3 (2.2; 2.4) 2.0 (1.8; 2.1) 1.3 (1.2; 1.5) 
Tỉ lệ giảm thể tích bướu đạt được sau 3 tháng. Điểm triệu chứng giảm rõ sau 3 tháng. Điểm thẩm mỹ 
giảm chậm hơn sau 6 tháng. 
Bảng 3. Các đặc điểm liên quan số lần can thiệp MWA 
Đặc điểm MWA 1 lần (N = 29) MWA 2 lần (N = 13) P value* 
Thời gian từ lúc phát hiện bướu đến khi đốt lần đầu MWA (tháng) 6 (4 - 6) 12 (8 - 12) 0.001 
Có điều trị RFA nhân giáp trước 0 (0) 4 (31) 0.006 
Thang điểm triệu chứng trước khi MWA 8 (7 - 8) 9 (8 - 10) <0.001 
Thang điểm triệu chứng sau khi MWA 0.043 
 - Mức 2 8 (28%) 0 (0) 
 - Mức 3 21 (72%) 13 (100%) 
Đường kính lớn nhất trước khi MWA (mm) 39 (35 - 44) 45 (35 - 55) 0.074 
Thể tích bướu trước khi MWA (ml) 18 (11 - 28) 32 (19 - 38) 0.047 
Đặc điểm siêu âm trước khi MWA 0.077 
 - Dạng hỗn hợp hoặc hóa nang một phần 17 (59) 4 (31) 
ĐẦU VÀ CỔ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
38 
 - Đồng ECHO 7 (24) 8 (62) 
 - Tĕng ECHO 5 (17) 1 (8) 
Nhân đặc trước khi MWA 0.096 
 - Đặc 11 (38) 9 (69) 
 - Nang hoặc hỗn hợp 18 (62) 4 (31) 
Có biến chứng 0 (0) 4 (31) 0.006 
(*): Fisher’s exact test và Mann - Whitney-U test 
Nhận xét: Các trường hợp thực hiện MWA lần 2 có khác biệt có ý nghĩa so với thực hiện 1 lần là: thời 
gian phát hiện bướu, bướu đã đốt RF, thể tích bướu lớn, thang điểm triệu chứng, có biến chứng. 
Biểu đồ 1. Tỉ lệ giảm thể tích bướu trong thời gian 
theo dõi 
Tỉ lệ giảm thể tích bướu đạt dược 70% sau 3 
tháng và tĕng đến hơn 90% sau 12 tháng. 
BÀN LUẬN 
Khác với phẫu thuật cắt trọn nhân giáp hay thùy 
giáp, khối nhân giáp tồn dư có thể hiện diện sau đốt 
phá hủy nhân bằng vi sóng (MW) có thể là sẹo hay 
là một phần nhân giáp còn lại. Sau đốt phá hủy nhân 
giáp bằng vi sóng, phản ứng viêm có thể tồn tại đến 
2 tuần. Vì lý do này, khối u sau đốt phá hủy bằng 
MW có thể xuất hiện lớn hơn nhưng sau đó sẽ giảm 
kích thước theo thời gian. 
Nguyên tắc hoạt động của vi sóng trong điều trị 
phá hủy khối u(3,7) 
Vi sóng có phổ điện trường từ 300MHz đến 
300GHz. Vi sóng ứng dụng trong phương tiện phá 
hủy u thông thường có phổ điện trường 915MHz và 
2450MHz. 
Phá hủy bằng vi sóng dựa trên nguyên ly sinh 
nhiệt lưỡng điện, trong đó chất lưỡng điện là mô. 
Khi trường điện từ xoay chiều lan truyền trong mô 
lưỡng điện không hoàn toàn nhiệt lượng sẽ sinh ra. 
Trong mô, sự sinh nhiệt xảy ra khi trường điện từ 
làm cho phân tử nước dao động. Các phân tử nước 
này có khuynh hướng dao động ngược pha với điện 
trường vì thế một phần nĕng lượng điện từ bị hấp 
thu và chuyển thành nhiệt lượng. Chất hấp thu điện 
từ tốt nhất là chất chứa tỉ lệ nước cao như tạng 
trong khi đó hiện tượng sinh nhiệt ít ở mô chứa ít 
nhất như mỡ. 
Về cơ bản; nhiệt độ trên 50°C làm mô biến đổi 
không thể phục hồi, nhiệt độ hơn 60°C sẽ gây ra 
hiện tượng chết tế bào ngay lập tức, trong khi nhiệt 
độ từ 50 đến 60°C sẽ gây hoại tử đông và chết tế 
bào trong vài phút, tùy thuộc vào nhiệt độ và tổn 
thương nhiệt trước đó. 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá tính 
an toàn và hiệu quả của phương pháp đốt nhân giáp 
lớn bằng vi sóng. 
Đánh giá sự an toàn 
Đánh giá dựa vào tỷ lệ các biến chứng, tử vong 
khi thực hiện thủ thuật, các tiêu chuẩn biến chứng 
được phân mức độ dựa theo Nghiên cứu đa trung 
tâm báo cáo nĕm 2012(2). 
Các biến chứng lớn: Thay đổi giọng nói, vỡ u, 
tổn thương đám rối cánh tay, suy giáp. 
Các biến chứng nhỏ: Tụ máu, bỏng da, ói. 
 Tụ máu 
Thay đổi giọng nói Tổn thương thực quản 
Hình 1. Các vùng nguy hiểm có thể có biến chứng 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, trên 40 bệnh 
nhân được điều trị bằng vi sóng, có 4 trường hợp 
(10%) có biến chứng nhẹ sau đốt: 1 trường hợp có 
ĐẦU VÀ CỔ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
39 
bỏng da tại vị trí đâm kim vào đốt, 3 trường hợp 
khác có bỏng da tại vị trí nhân giáp được đốt. Nhưng 
tất cả các trường hợp này đều hồi phục sau 1 tuần 
điều trị và không tạo thành sẹo. Không có trường 
hợp nào có biến chứng nặng. 
Một số nghiên cứu chỉ ra rằng tỉ lệ biến chứng 
do MWA là từ 5 - 13%, chủ yếu là các biến chứng 
nhẹ. Không có biến chứng nặng. 
So với RFA thì cho thấy RFA an toàn hơn. 
Báo cáo kết quả thực hiện RFA trên 111 bệnh nhân, 
theo dõi trong 4 nĕm, ghi nhận(9): có 126 nhân giáp 
không chức nĕng trên 111 bệnh nhân có nhân giáp. 
Thời gian theo dõi trung bình 49,4 ± 13,6 tháng. 
Số lần thực hiện trung bình 2,2 ± 1,4. Thể tích nhân 
giảm trung bình 93,4 ± 11,7%. Biến chứng chung 
3,6% (4/111). 
Các tai biến, biến chứng và cách xử lý 
Bỏng da: Chúng tôi có một số trường hợp bị 
bỏng da và cách xử lý như sau: 
Tại vị trí đưa kim vào đốt: Giảm nhiệt độ đốt còn 
70 - 80 độ, dùng gạc ướt bao quanh chân kim, dùng 
dung dịch nước muối sinh lý hoạc thuốc tê pha loãng 
bơm quanh vị trí chân kim. Sử dụng kim dẫn đường 
trước, đưa kim đốt qua kim dẫn đường. 
Nhân ở sát da, các cơ quan quan trọng như khí 
quản, thực quản, thần kinh, mạch máu: Dùng dung 
dịch thuốc tê, bơm tách nhân ra xa tổ chức đó để 
tránh tổn thương trong khi đốt. 
Lựa chọn đầu đốt và nĕng lượng 
Trong nghiên cứu chúng tôi, thường sử dụng 
kim nhỏ (Small) cho các tổn thương lớn hơn 40mm, 
và kim rất nhỏ (mini) cho các tổn thương nhỏ hơn 
40mm. Chúng tôi cài đặt nhiệt độ ở khoảng 70 - 80 
độ là đủ để đốt trọn khối tổn thương, tránh gây bỏng 
và đau rát cho bệnh nhân. 
Các cách tiếp cận tuyến giáp đốt MWA(5) 
Tiếp cận xuyên qua eo giáp: Cách này thường 
được sử dụng và khuyến cáo, bởi vì tiếp cận qua eo 
giáp sẽ tránh được “Tam giác nguy hiểm (thực quản, 
khí quản, thần kinh quặc ngược thanh quản)” với độ 
mở rộng hơn. Toàn bộ đầu đốt được quan sát dưới 
siêu âm. 
Tiếp cận đường bên: Cách này có thể sử dụng 
nếu mạch máu nhô lên nhiều. 
Tiếp cận đường dọc: Đây cũng là phương pháp 
thường dùng ở một số nơi. 
Trong MWA tuyến giáp có 3 đường tiếp cận cơ 
bản, trong đó đường tiếp cận qua eo giáp là có 
nhiều thuận lợi, dễ thực hiện. Trong nghiên cứu này 
chúng tôi đều tiếp cận qua đường này. 
Kỹ thuật đốt(1): Trong điều trị tuyến giáp bằng 
kỹ thuật ít xâm lấn. Dùng laser sử dụng kỹ thuật 
Pull Back tenique (kỹ thuật đốt kéo lùi). Trong RFA 
sử dụng kỹ thuật moving shot tenique (kỹ thuật đốt 
di chuyển). Còn trong MWA sử dụng kỹ thuật 
one shot hay multi-shot tenique (Kỹ thuật đốt một lần 
hay nhiều lần). Trong nghiên cứu này chúng tôi sử 
dụng kỹ thuật Multi-shot cho các nhân giáp kích 
thước lớn. 
Đánh giá hiệu quả điều trị 
Chúng tôi đánh giá hiệu quả của việc đốt phá 
hủy khối nhân giáp dựa trên trên siêu âm kiểm tra 
đánh giá ở các thời điểm 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng 
và 12 tháng như sau(2). 
RFA, MWA
1 ~ 2 tuần 
6-12 tháng:50-80% 
giảm thể tích 
1 tháng : 30-50% giảm thể tích 
Diễn tiến tự nhiên 
Hình 2. Đánh giá nhân giáp sau đốt ở các 
thời điểm theo dõi 
Trong nghiên cứu của chúng tôi đối với các 
nhân giáp có kích thước lớn trên 3cm. Tỉ lệ giảm thể 
tích bướu đạt được sau 3 tháng. Điểm triệu chứng 
giảm rõ sau 3 tháng. Điểm thẩm mỹ giảm chậm hơn 
sau 6 tháng. Tỉ lệ giảm thể tích bướu đạt dược 70% 
sau 3 tháng và tĕng đến hơn 90% sau 12 tháng. 
Có 13 nhân giáp (31%) cần can thiệp MWA 
lần 2. Thời gian trung bình cho lần can thiệp thứ 2 là 
sau 5 tháng. Các trường hợp thực hiện MWA lần 2 
có khác biệt có ý nghĩa so với thực hiện 1 lần là: thời 
gian phát hiện bướu, bướu đã đốt RF, thể tích bướu 
lớn, thang điểm triệu chứng, có biến chứng. 
Nhiều nghiên cứu về MWA(3,4,5) cho thấy MWA 
giảm triệu chứng rõ rệt sau 3 tháng và tỉ lệ giảm thể 
tích sau 3 tháng có thể đạt 70%, và đạt 90% sau 12 
tháng. Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho kết quả 
tượng tự đối với các nhân giáp lớn. 
So với kết quả thực hiện RFA trên 111 bệnh 
nhân, với nhân giáp có kích thước nhỏ trung bình 2-
3cm, theo dõi trong 4 nĕm, ghi nhận(2). Tỉ lệ thành 
công điều trị 98,4% (124/126). Tỉ lệ tái phát chung 
5,6% (7/111). Cho thấy RFA có hiệu quả ở những 
nhân giáp có kích thước nhỏ. 
ĐẦU VÀ CỔ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
40 
Trước đây, các nhân giáp kích thước lớn hơn 
3cm đều có chỉ định phẫu thuật. Ngày nay, phẫu 
thuật điều trị nhân giáp lành tính cũng tương đối đơn 
giản nhờ những tiến bộ về gây mê hồi sức, trang 
thiết bị. Tuy nhiên phẫu thuật cũng có những rủi ro 
như phải gây mê, có sẹo mổ, có tai biến thần kinh, 
tuyến cận giápQua nghiên cứu này cho thấy, đối 
với các nhân giáp lành tính có kích thước lớn thì 
việc áp dụng MWA cho thấy hiệu quả, và có nhiều 
lợi điểm. 
Lợi điểm của MWA trong bướu giáp(6,7) 
Dễ thực hiện. 
Xâm lấn tối thiểu (không sẹo, gây tê tại chỗ, 
không cần bệnh nhân nằm viện). 
Giảm chi phí chĕm sóc sức khỏe. 
Kết quả rất tốt. 
Tỉ lệ biến chứng thấp. 
Có thể làm lại nếu cần. 
Không gây suy giáp như phẫu thuật hay dùng 
phóng xạ. 
KẾT LUẬN 
Ứng dụng vi sóng được coi là một bước tiến 
mới trong điều trị bướu giáp. Bởi lẽ phương pháp 
này mang lại nhiều ưu điểm vượt trội so với phương 
pháp mổ thông thường: Không cần gây mê, độ an 
toàn cao, thời gian điều trị và hồi phục nhanh chóng, 
bệnh nhân có thể trở về ngay sau khi điều trị, nguy 
cơ tái phát rất thấp. 
Đối với các nhân giáp lành tính kích thước lớn, 
việc áp dụng đốt bằng vi sóng cho thấy an toàn, có 
hiệu quả cao trong việc giảm triệu chứng lâm sàng, 
thẫm mỹ, không để lại sẹo và giảm thể tích bướu 
theo thời gian, đạt được 70% ở thời điểm sau đốt 3 
tháng và 90% ở thời điểm 12 tháng theo dõi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Baek J. H; J. H. Lee, R. Valcavi, C. M. Pacella, 
H. Rhim, and D. G. Na, “Thermal ablation for 
benign thyroid nodules: radiofrequency and 
laser,” Korean Journal of Radiology, vol. 12, no. 
5, pp. 525 - 540, 2011. 
2. Baek J. H; et al “Complication Encountered in 
the treatment of benign thyroid nodules with US-
guided RFA: A multicenter study. Radiology. 
2012 Jan; 262(1): 335 - 42. 
3. Heck K, Happel C, Grunwald F, et al (2015) 
Percutaneous microwave ablation of thyroid 
nodules: effects on thyroid function and 
antibodies. International journal of hyperthermia : 
the official journal of European Society for 
Hyperthermic Oncology, North American 
Hyperthermia Group 31:560 - 567. 
4. Jin H, Fan J, Liao K, et al (2018) A propensity 
score matching study between ultrasound-
guided percutaneous microwave ablation and 
conventional thyroidectomy for benign thyroid 
nodules treatment. International journal of 
hyperthermia : the official journal of European 
Society for Hyperthermic Oncology, North 
American Hyperthermia Group 35:232 - 238. 
5. Korkusuz H, Nimsdorf F, Happel C, et al (2015) 
Percutaneous microwave ablation of benign 
thyroid nodules. Functional imaging in 
comparison to nodular volume reduction at a 
3 -month follow-up. Nuklearmedizin Nuclear 
medicine 54:13 - 19. 
6. Korkusuz Y, Kohlhase K, Groner D, et al (2016) 
Microwave Ablation of Symptomatic Benign 
Thyroid Nodules: Energy Requirement per ml 
Volume Reduction. RoFo : Fortschritte auf dem 
Gebiete der Rontgenstrahlen und der 
Nuklearmedizin 188:1054 - 1060. 
7. Liu YJ, Qian LX, Liu D, et al (2017) Ultrasound-
guided microwave ablation in the treatment of 
benign thyroid nodules in 435 patients. 
Experimental biology and medicine (Maywood, 
NJ) 242:1515 - 1523. 

File đính kèm:

  • pdfan_toan_va_hieu_qua_cua_dot_nhan_giap_lon_lanh_tinh_bang_vi.pdf