Âm nhạc truyền thống và đương đại của người Chăm An Giang

Trên cơ sở khái quát sự hình thành với những nét đặc trưng về văn

hóa của người Chăm ở An Giang, bài viết tập trung làm rõ âm nhạc

truyền thống và đương đại của cộng đồng này ở An Giang, đồng thời,

tác giả làm rõ các đặc điểm về nét đặc trưng âm nhạc người Chăm

An Giang. Qua đó, tác giả cũng chỉ ra những điểm dị biệt và tương

đồng trong âm nhạc người Chăm An Giang với người Chăm miền

Trung Việt Nam. Từ thực trạng đời sống âm nhạc của người Chăm

An Giang, tác giả đề xuất những giá trị cần bảo tồn và phát huy cùng

với những yếu tố nhằm tạo điều kiện cho nền âm nhạc này phát triển

phong phú hơn trong hiện tại và tương lai.

pdf 14 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Âm nhạc truyền thống và đương đại của người Chăm An Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Âm nhạc truyền thống và đương đại của người Chăm An Giang

Âm nhạc truyền thống và đương đại của người Chăm An Giang
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 98 – 111 
98 
ÂM NHẠC TRUYỀN THỐNG VÀ ĐƯƠNG ĐẠI 
CỦA NGƯỜI CHĂM AN GIANG 
Võ Văn Thắng1, Dương Phương Đông1 
1Trường Đại học An Giang, ĐHQG-HCM 
Thông tin chung: 
Ngày nhận bài: 20/05/2020 
Ngày nhận kết quả bình 
duyệt: 
21/06/2020 
Ngày chấp nhận đăng: 
06/2020 
Title: 
Effect of treatment 
conditions on the 
preservation of tricolor 
mango (Mangifera indica) 
pieces 
Keywords: 
An Giang, music, the 
Cham people 
Từ khóa: 
An Giang, âm nhạc, Chăm 
ABSTRACT 
Based on the overview of the formation with the cultural 
characteristics of the Cham people in An Giang, the article focuses 
on clarifying the traditional and contemporary music as well as 
typical musical characteristics of this community. Thereby, the author 
also points out the differences and similarities in music between the 
Chams in An Giang music and the Cham people in Central Vietnam. 
From the current state of the musical life of the Cham people in An 
Giang, the author proposes values with unique elements that need to 
be preserved and promoted to help this kind of music be more diverse 
in the present and future. 
TÓM TẮT 
Trên cơ sở khái quát sự hình thành với những nét đặc trưng về văn 
hóa của người Chăm ở An Giang, bài viết tập trung làm rõ âm nhạc 
truyền thống và đương đại của cộng đồng này ở An Giang, đồng thời, 
tác giả làm rõ các đặc điểm về nét đặc trưng âm nhạc người Chăm 
An Giang. Qua đó, tác giả cũng chỉ ra những điểm dị biệt và tương 
đồng trong âm nhạc người Chăm An Giang với người Chăm miền 
Trung Việt Nam. Từ thực trạng đời sống âm nhạc của người Chăm 
An Giang, tác giả đề xuất những giá trị cần bảo tồn và phát huy cùng 
với những yếu tố nhằm tạo điều kiện cho nền âm nhạc này phát triển 
phong phú hơn trong hiện tại và tương lai. 
1. GIỚI THIỆU 
An Giang là tỉnh nằm ở đầu nguồn lưu vực sông 
Mekông với đặc thù là một tỉnh nông nghiệp, vừa 
có đồng bằng, vừa có đồi núi, có đường biên giới 
tiếp giáp với Campuchia dài gần 100km. An 
Giang có dân số đông nhất ở miền Tây Nam Bộ, 
đứng hạng thứ 6 ở Việt Nam. An Giang cũng là 
tỉnh có số người Chăm Islam sinh sống nhiều nhất 
ở Nam Bộ. Theo thống kê về công tác tôn giáo ở 
An Giang, toàn tỉnh hiện có 15.327 người Chăm 
theo Islam giáo (Ban Chỉ đạo Đại hội đại biểu các 
dân tộc thiểu số tỉnh An Giang, 2019), chiếm tỷ lệ 
0,67% trong tổng số 2,164 triệu người dân An 
Giang (Tỉnh ủy An Giang, 2018), với tám làng 
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 98 – 111 
99 
Chăm cùng 12 Thánh đường và 13 tiểu Thánh 
đường. Mặc dù dân số ít hơn dân tộc Khmer, Kinh 
trong tỉnh nhưng cộng đồng Chăm ở An Giang 
với sự gắn kết của tôn giáo và văn hóa, luôn thể 
hiện rõ nét tinh thần đoàn kết, tương thân tương 
ái. Người Chăm ở An Giang theo Islam giáo đã 
góp phần quan trọng trong việc hình thành nét văn 
hóa độc đáo cho tộc người Chăm nơi đây, tạo ra 
những điểm khác biệt cơ bản trong đời sống văn 
hóa với bộ phận người Chăm tại Ninh Thuận và 
Bình Thuận. 
2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH 
NGƯỜI CHĂM AN GIANG 
Người Chăm An Giang hình thành như thế nào 
đến nay vẫn có nhiều ý kiến khác nhau nhưng căn 
cứ vào một số tài liệu dân tộc học và những hiện 
vật còn lưu giữ, đặc biệt là quyết định xác minh 
cộng cộng đồng dân tộc của Tổng cục Thống kê 
Việt Nam ngày 2/3/1979, chúng ta có thể nói 
rằng: Người Chăm An Giang và người Chăm 
miền Nam Trung bộ đều chung một nguồn gốc 
lịch sử từ lâu đời. Kể cả người Chăm ở thành phố 
Hồ Chí Minh, Tây Ninh và Campuchia (Lâm 
Tâm, 1994). Từ thời cổ, trung đại, trên dải đất 
miền Trung Việt Nam chính là địa bàn cư trú của 
người Chăm, họ đã từng xây dựng nên một quốc 
gia hùng mạnh - Vương quốc Champa (Chiêm 
Thành) vẫn còn lưu trong sử sách cho đến ngày 
hôm nay. Theo các sử liệu cổ của Trung Quốc, 
Vương quốc Champa được thành lập từ năm 192 
sau Công nguyên, lấy tên là Lâm Ấp (có nghĩa là 
xứ rừng). Sau đó, Lâm Ấp lần lượt đổi tên thành 
Hoàn Vương rồi Chiêm Thành. Lâm Ấp được 
thành lập là do Khu Liên, một viên chức bản địa 
vì không chịu nỗi sự cai trị hà khắc của nhà Hán 
nên lãnh đạo người dân nổi dậy lật đổ chính 
quyền khu vực Nam Thừa Thiên Huế ngày nay. 
Lâm Ấp có địa bàn trải dài từ thành phố Đà Nẵng 
và các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - 
Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú 
Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và 
một số vùng thuộc Tây Nguyên. Trong quá trình 
phát triển đất nước, Vương quốc Champa có 
những biến động nhất định do ảnh hưởng của 
chiến tranh. Người Champa từng có xung đột với 
các quốc gia trong khu vực thời bấy giờ như Chân 
Lạp (Campuchia), Malaska, Xiêm (Thái Lan) 
Đặc biệt là những cuộc xung đột và giao tranh với 
Đại Việt có ảnh hưởng rất lớn đối với sự biến đổi 
lãnh thổ và dân cư Lâm Ấp. 
Từ thế kỷ thứ X trở đi, sau nhiều lần chiến bại 
trong những cuộc giao chiến với Đại Việt khiến 
vương quốc Champa phải lùi về phía Nam. Năm 
1471, sau khi bị quân Lê Thánh Tông bắt quốc 
vương Bàn La Trà Toàn, lãnh thổ Champa chia 
làm ba nước nhỏ Chiêm Thành, Hóa Anh và Nam 
Phan, hàng loạt người Chăm đã bỏ chạy “họ trốn 
lên miền núi với người Thượng, sang Campuchia, 
bỏ xứ mà đi sang Sumatra. Chỉ có đàn bà, những 
kẻ hèn nhất và người già cả cùng con nít ở lại 
thôi” (Nguyễn Văn Luận (1974). Đến đầu thế kỷ 
XIX, sau khi thống nhất giang sơn, với sự cai 
quản chặt chẽ của nhà Nguyễn, năm 1822, vua 
Champa cuối cùng là PoChơnChan đóng đô ở 
Phan Rang phải bỏ ngai vàng cùng các binh 
tướng, tùy tùng và gia đình vượt Trường Sơn trốn 
sang Campuchia. Năm 1833, khi Lê Văn Khôi nổi 
lên khởi nghĩa chống lại nhà Nguyễn, chiếm vùng 
Phan Thiết, Phan Rí, Phan Rang nhưng đến năm 
1835, khởi nghĩa bị quan quân dẹp tan, rất nhiều 
người Chăm sợ triều đình bắt tội nên trốn chạy 
vào những vùng hẻo lánh hoặc sang Campuchia, 
Thái Lan, Mã Lai, Inđônêsia Trong quá trình 
sống xa cộng đồng gốc, họ chịu ảnh hưởng của 
tôn giáo Islam khá sâu đậm, vì thế các phong tục 
tập quán đều phải tuân thủ theo các điều luật trong 
giáo lý Islam. Đến giữa thế kỷ XIX, được lệnh 
chiên an của vua Thiệu Trị (1940) phần lớn họ hồi 
hương về định cư ở Châu Đốc (Nguyễn Quang 
Điển, 2006). Năm 1841, Nam Bộ có cuộc khởi 
nghĩa Lâm Sâm ở Trà Vinh. Lúc bấy giờ, vua 
Thiệu Trị xuống chiếu cho Trương Minh Giảng 
đang ở Chân Lạp (Campuchia) rút quân về. 
Những người Chăm và người Mã Lai được tuyển 
vào quân đội triều Nguyễn cùng gia quyến của họ 
đã rút theo đoàn quân của Trương Minh Giảng, 
khâm sai đại thần Lê Văn Đức, phó khâm sai 
Doãn Uẩn của triều Nguyễn cũng theo về. Sau đó, 
họ cư trú cùng gia đình dọc sông Hậu (cù lao 
Katambong) và Khánh Bình (An Phú, An Giang) 
cho đến ngày nay. Năm 1858, ở Chân Lạp, Tuôn 
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 98 – 111 
100 
Sết It lãnh đạo nhân dân nổi dậy chống lại triều 
đình phong kiến. Cuộc khởi nghĩa đã thu hút khá 
đông người Chăm, người Mã Lai tham gia. Đến 
khi cuộc khởi nghĩa thất bại, rất nhiều người 
Chăm, người Mã Lai chạy về Nam Bộ. Tất cả đều 
được Triều Nguyễn thu nhận và cho định cư ở 
vùng đất An Giang, cụ thể là phân bố trong 7 
làng: Châu Giang, Katambong, Phum Soài, La 
Ma, Koh Koi, Koh Kia và Sa Bâu. Đây được xem 
là đợt di dân đông đảo nhất của người Chăm từ 
Campuchia về An Giang. 
Trong hai năm 1854 và 1858, nhiều người Chăm 
Islam sống sót sau đợt tàn sát của quân Khmer đã 
chạy qua Châu Đốc tị nạn, được Trương Minh 
Giảng cho định cư cùng với những người Chăm 
đã có mặt từ trước ở vùng biên giới dọc theo sông 
Hậu gần Châu Đốc và Tây Ninh. Do tác động của 
điều kiện lịch sử diễn ra từ nửa sau thế kỷ XVIII, 
tạo nên những đợt di dân của người Chăm sau bao 
năm phiêu bạt đã trở về vùng đất Nam bộ Việt 
Nam cư trú. Như vậy, cư dân Chăm ở Nam Bộ nói 
chung và ở An Giang nói riêng được hình thành 
từ hai nguồn chủ yếu: một là, từ Trung Bộ chuyển 
cư thẳng vào vùng đất mới phía Nam và hai là, 
một phần khác không nhỏ từ nước ngoài như 
Chân Lạp, Mã Lai, Inđônêsia trở về. Buổi đầu họ 
tập trung cư trú rất đông ở An Giang, Tây Ninh và 
rải rác ở các địa phương thuộc Nam Bộ. Tuy 
nhiên, do yêu cầu lập nghiệp và ảnh hưởng của 
chiến tranh, bom đạn dưới thời kỳ Pháp thuộc và 
ách thống trị của chủ nghĩa thực dân mới ở miền 
Nam, nhiều nông dân ở vùng Đồng bằng sông 
Cửu Long, trong đó có khá đông người Chăm, 
nhất là người Chăm ở An Giang đã bỏ quê lên Sài 
Gòn hy vọng tìm nơi có cuộc sống yên ổn hơn 
hoặc đi phá hoang, sống về nghề ruộng rẫy ở tỉnh 
Bà Rịa, Đồng Nai, rải rác cũng có một số ít sống 
trong các thị trấn, thị xã. Do điều kiện lịch sử, 
người Chăm ở An Giang có mối quan hệ với Hồi 
giáo Malaysia, Inđônêsia, từ đó, mở rộng quan 
hệ với cộng đồng Hồi giáo trong khu vực Đông 
Nam Á và các nước khác. Chính vì thế, cộng đồng 
người Chăm ở An Giang chịu ảnh hưởng của 
người Mã Lai nhiều hơn về tiếng nói, tín ngưỡng 
so với những người đồng tộc của họ ở Ninh 
Thuận, Bình Thuận. Tuy vậy, người Chăm Hồi 
giáo ở An Giang và người Chăm Bàlamôn ở Ninh 
Thuận, Bình Thuận có chung một nguồn gốc, một 
tiếng nói, một nền văn hóa Chăm cổ truyền và biết 
rõ về tính cộng đồng nguồn gốc này. Trong số 
người Chăm về An Giang, có một bộ phận được 
các tài liệu gọi là Đồ Bà mà người Pháp cho là 
người Mã Lai. Người Chăm gọi họ là “Java – 
Kur”. Từ “Java” để chỉ những người nói tiếng Mã 
Lai ở đảo Java (Inđônêsia) và thường cũng để gọi 
chung những người nói tiếng Mã Lai ở khu vực 
Đông Nam Á hải đảo; từ “Kur” để gọi người 
Khmer. Di duệ của người Java – Kur này hiện cư 
trú tập trung tại xóm Châu Giang, trên khu vực 
bến phà Châu Giang thuộc thị xã Tân Châu, một ít 
sinh sống tại Koh Tambong (Koh Tamboong tiếng 
Chăm có nghĩa là "Cồn Cây gậy", còn người 
Khmer gọi cù lao Khánh Hòa là េ�ះដំបង, có 
nghĩa là “Cù lao Dùi cui” hay “Cù lao Lớn” hay 
“Cù lao Xương rồng”) thuộc huyện Châu Phú 
(Sơn Nam, 1988). Trải qua quá trình định cư lâu 
dài tại vùng đất An Giang, cộng đồng người 
Chăm đã tạo nên một bản sắc riêng rất độc đáo 
trong nền văn hóa Việt Nam góp phần không nhỏ 
cho bức tranh tươi đẹp của vùng đất mới này ngày 
hôm nay. 
3. HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA VĂN NGHỆ 
CỦA NGƯỜI CHĂM AN GIANG 
Có thể nói, hoạt động văn hóa văn nghệ của người 
Chăm rất phong phú. Lễ Ramadan – Thành lễ - là 
một trong những lễ hội lớn nhất của đồng bào 
Chăm ở An Giang, được tổ chức từ ngày 01 đến 
ngày 30 tháng 9 Hồi lịch. Tháng này còn gọi là 
“Plănơh” có nghĩa là “tháng nhịn” hay tháng ăn 
chay liên tục trong 30 ngày. Sau tháng ăn chay, 
người Chăm tổ chức lễ đại lễ xả chay (Roya Eidil 
Fitri) vào ngày 01 tháng 10. Trong đêm này, mọi 
người vui mừng ca hát rất náo nhiệt, sôi động. 
Sáng hôm sau, đàn ông trong xóm đi đến Thánh 
đường làm lễ và cầu nguyện, sau đó cùng người 
thân đi viếng mộ người thân, thăm họ hàng trong 
làng. Thánh lễ quan trọng đối với người Chăm là 
lễ hành hương tại thánh địa Mecca (Roya Haji), 
diễn ra đúng vào ngày 9 tháng 12 Hồi lịch tại 
thánh địa Mecca. Riêng những người ở tại xóm, 
ấp lại tiến hành ăn lễ vào ngày 10 tháng 12 Hồi 
lịch. Trong các ngày hội lớn, các hoạt động diễn 
ra tạo nên một không khí hết sức vui tươi nơi 
cộng đồng người Chăm sinh sống. Trước đây, do 
sự ngăn cấm của giáo luật Hồi giáo nên sinh hoạt 
văn nghệ dân gian không được phát triển nhưng 
bù lại, người Chăm An Giang đã xây dựng nên 
một nền văn học với đủ các loại truyện kể. Qua 
những truyện kể ta có thể nhận thấy cộng đồng 
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 98 – 111 
101 
Chăm Islam ở An Giang luôn đề cao tình nghĩa vợ 
chồng, tình anh em như truyện Đôrya cô gái nết 
na, Amách và Sifoah, Đặc trưng trong hầu hết 
các câu truyện kể của người Chăm An Giang đều 
thấp thoáng hình bóng của thần linh hiện ra để 
giải quyết những khó khăn mà khả năng con 
người không làm được. Ngoài ra, họ cũng có 
truyện cười, truyện ngụ ngôn hay truyện thần 
thoại kể về Mohammad, về thiên thần theo kinh 
Qur’an. Có thể nói, nền văn học Việt Nam có sự 
đóng góp không nhỏ kho tàng văn học của cộng 
đồng Chăm Islam. 
Sinh hoạt âm nhạc người Chăm An Giang không 
giống như âm nhạc của người Chăm ở Trung bộ. 
Họ không sử dụng bất kỳ nhạc khí dây, hơi nào 
ngoài bộ trống Ráp Pà-nà (khác với trống 
Paranưng, Gineng của Chăm Trung bộ (Người 
Chăm miền Trung quan niệm: kèn Saranai, trống 
Paranưng và trống Gineng là biểu tượng của trời, 
đất, người, thể hiện “thiên, địa, nhân” nhất thể. Do 
vậy, khi biểu diễn cần chơi ba loại nhạc cụ này để 
thể hiện sự hòa hợp 3 yếu tố đó. Hiện nay, người 
Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận còn lưu giữ 
và sử dụng nhiều nhạc cụ truyền thống trong sinh 
hoạt văn hóa cộng đồng, gồm ba nhóm: một là, bộ 
gõ gồm có trống Gineng (2 mặt), trống Paranưng 
1 mặt, trống Hagăr (2 mặt), Chiêng (cheng) và mõ 
(akhok); hai là, bộ hơi gồm kèn Saranai, tù và 
(asăng) và sáo (talăk); ba là, bộ dây gồm đàn Nhị 
(Kanhi), đàn Bầu “Chapi” và đàn Gáo “Rabăp”). 
Trống cổ Ráp Pà-nà ở An Giang nếu còn đủ bộ thì 
có 12 cái và được lưu giữ khoảng 300 năm. 
Nhưng do chiến tranh, bộ trống bị thất lạc không 
còn đủ mà chỉ còn 6 cái, trong đó, 01 cái trống 
đực (trống dẫn), 5 trống cái (Hiện nay, theo khảo 
sát của chúng tôi, chỉ còn 2 dàn trống cổ ở xóm 
Chăm Châu Giang (Phú Hiệp, Tân Châu) và đội 
trống Lama (Vĩnh Trường, An Phú), nhưng chỉ có 
gần một chục người ở Vĩnh Trường biết chơi, biết 
hát các giai điệu cổ nhạc Chăm-pa bằng trống Ráp 
Pà-nà). Người chơi trống Ráp Pà-nà chỉ là nam, 
ngồi xếp thành hình bán nguyệt, họ vừa đánh 
cũng có thể vừa hát, trong khi đó, khi chơi trống 
Paranưng (cả ngày lễ tết và ngày thường) ở miền 
Trung, người chơi vừa đánh trống vừa múa hát, cả 
nam lẫn nữ đều hát, múa chung vui. Do nhu cầu 
giao lưu văn hóa, trống Ráp Pà-nà ở An Giang 
cũng được biểu diễn trong các lễ hội như trống 
Paranưng. Từ trống Ráp Pà-nà, người Chăm An 
Giang phát triển một cách linh hoạt, sáng tạo 
trong khi chơi với thể loại dân ca: các điệu hò, vè, 
hát đố, hát ru, các bài đồng dao, hát giao duyên 
Ađtơn, Atằm Tànà, ca dao Pa-nược Pa-dát. Trong 
sinh hoạt văn hóa văn nghệ, chúng ta không thấy 
sự xuất hiện của những cô gái Chăm duyên dáng 
với những điệu múa quạt xòe, mềm mại như ở 
miền Trung mà chỉ có tiếng trống. Tiếng trống thể 
hiện sự linh thiêng và được xem là linh hồn của 
người Chăm, cho nên, nó cũng luôn được xuất 
hiện trong những buổi cầu nguyện hàng tuần hay 
các buổi lễ lớn tại các thánh đường. 
4. ÂM NHẠC TRUYỀN THỐNG VÀ 
ĐƯƠNG ĐẠI CỦA NGƯỜI CHĂM AN 
GIANG 
4.1 Âm nhạc truyền thống của người Chăm An 
Giang 
Cũng như người Chăm Ninh Thuận, Bình Thuận, 
đời sống văn hóa của người cũng chịu ảnh hưởng 
sâu sắc bởi sự tác động của tín ngưỡng, nhưng có 
phần lắng đọng hơn so với người Chăm Ninh 
Thuận, Bình Thuận, bởi lẽ, người Chăm An Giang 
theo Islam giáo (tôn giáo độc thần – Thánh 
Allah). Nghiên cứu cho thấy, hầu hết các bài hát 
cổ của người Chăm An Giang đều xuất phát từ 
những câu hát gọi đến thánh đường làm lễ 
(Adhan/Azan). Đối với người Hồi giáo, trong kinh 
Qur’an (Koran) không cấm ca hát hay chơi nhạc, 
mà còn khuyến khích chơi trống tạo tiết tấu đệm 
cho hát (theo những Giáo cả của các làng Chăm ở 
An Giang đọc và dịch từ kinh Qur’an). Từ lời 
kinh Qur’an, người Chăm An Giang đã thành lập 
một Đội Văn nghệ gọi là Campulanh, hiện nay 
vẫn còn hoạt động tại ấp La Ma, xã Vĩnh Trường, 
huyện An Phú. Đội văn nghệ này vừa đánh trống 
vừa hát trong các buổi lễ cưới của người Chăm, 
mỗi bài hát thường rất dài khoảng 15 đến 20 phút. 
Tuy nhiên, chúng ta thấy, người Chăm An Giang 
không hát trong các lễ cầu nguyện mà họ chỉ hát 
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 98 – 111 
102 
trong đám cưới, trong lao động hay ru con (khác 
với người Chăm Ninh Thuận chỉ hát góp vui, 
không sử dụng nhạc khí trong đám cưới). 
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu âm nhạc vẫn 
chưa tìm ra được một nhạc cụ nào (bộ hơi hay bộ 
kéo giống người Chăm Ninh Thuận) của người 
Chăm An Giang, chỉ duy nhất ngoài bộ gõ là: 
Trống Ráp Pà-nà, trống Tum như đã nói trên đây. 
Người Chăm An Giang chỉ kết hợp trống và hát 
để tạo ra tiết tấu nhanh, chậm khác nhau nhằm thể 
hiện nội dung bài hát ở trạng thái buồn, vui và 
không có múa. 
Dựa trên các yếu tố đã phân tích, để có cái nhìn rõ 
hơn, chúng ta xem bảng so sánh sau đây để tìm ra 
những nguyên nhân hạn chế của người Chăm 
Ninh Thuận và Chăm An Giang trong sinh hoạt 
âm nhạc. 
Chăm Ninh Thuận Chăm An Giang 
Âm nhạc truyền thống: 
Đa dạng, phong phú về hình thức thể hiện 
Âm nhạc truyền thống: 
Số lượng ít, đa số bị thất truyền 
Khí nhạc: có đủ 3 bộ: 
- Bộ gõ; 
- Bộ dây; 
- Bộ hơi. 
Khí nhạc: có 01 bộ: 
Chỉ có bộ gõ. 
Các bài hát truyền thống: 
Đa dạng, đáp ứng cho từng lễ hội, sinh động 
Các bài hát truyền thống: 
Ít, mai một, hầu như không còn 
Bộ trống của người Chăm An Giang: 
Trống Ráp Pà-nà: Có hình dáng giống Paranưng 
nhưng mục đính và cách biểu diễn có phần khác 
nhau về tư thế ngồi đánh trống. Bộ trống đầy đủ 
gồm 12 cái (2 trống đực, 10 trống cái). Trống Ráp 
Pà-nà được làm bằng cách khoét lỗ thân các loại 
danh mộc như giáng hương, mun có tuổi từ 100 
năm trở lên. 
Bộ trống Ráp-Pà-na ở làng Chăm Lama xã Vĩnh Trường, huyện An Phú 
(Ảnh: Trương Chí Hùng) 
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 98 – 111 
103 
Trống Ráp Pà-nà chỉ dành cho nam giới chơi vào những ngày lễ tết, lễ cưới. Khi chơi trống, người chơi 
ngồi thành vòng bán nguyệt. Đội đồng ca cũng là người chơi trống, cất vang những bài hát ca ngợi tình 
mẹ cha, tình yêu quê hương, đất nước, lời răn dạy con cháu 
- Trống Tum (trống cái) 
Đây là loại trống tròn, bịt da một mặt, đường kính 
khoảng 30cm. Mặt trống bịt da dê, thân trống 
bằng gỗ quý. Trống tum (trống cái) đóng vai trò 
chủ đạo trong dàn trống, tất cả phải dựa vào nhịp 
của trống tum (trống cái) mà đánh. Chỉ những 
người nhạc trưởng và có uy mới được đánh trống 
này. 
Qua tìm hiểu, khảo sát, sưu tầm của chúng tôi, 
những bài hát truyền thống của người Chăm An 
Giang hiện nay được tìm thấy cũng khá ít. Điều 
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 98 – 111 
104 
này có lý do là, trong quan niệm người Chăm An 
Giang, họ theo đạo Islam nên các bài truyền thống 
là những bài hát của đạo Hồi giáo có nguồn gốc từ 
Malaysia. 
Như trên đây chúng tôi đã trình bày, âm nhạc 
người Chăm ở An Giang có đặc điểm là nó dựa 
vào lời đọc/ mời đến thánh đường làm lễ (Azan), 
từ đó sáng tạo ra những giai điệu hình thành nên 
nhiều bài hát truyền thống. Từ những yếu tố, 
chúng tôi nghiên cứu các thanh âm Azan như sau: 
Qua thang âm được ghi nhận từ Azan, chúng ta có được thang âm so sánh gần như tương đồng. 
Đó là thang âm quốc tế Hungarian (Minor). 
Theo chúng tôi tìm hiểu và sưu khảo được, hiện 
nay có khoảng trên dưới 05 bài được cho là nhạc 
truyền thống của người Chăm An Giang, gồm: 
- 02 bài được hát trong đám cưới; 
- 01 bài hát ru con; 
- 01 bài hát cầu an; 
- 01 bài hát mừng nhà mới. 
Bài hát đầu tiên, là bài hát Iniganhtanh (Đưa rễ). 
Bài hát này được hát suốt thời gian khi chú rể 
cùng đoàn nhà trai xuất hành sang nhà gái để trao 
quà cưới và ra mắt chú rể. Sau khi đã thỏa thuận 
hai bên nhà trai và nhà gái tất cả cùng vui vẻ hát 
bài Niganhtanh để chúc cho cô dâu và chú rể 
được bên nhau mãi mãi. 
Hai bài được sử dụng trong đám cưới: 
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 98 – 111 
105 
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 98 – 111 
106 
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 98 – 111 
107 
Thang âm của hai bài trên được ghi nhận như sau: 
Chúng ta thấy, thang âm này gần giống như điệu Cung trong thang âm ngũ cung của người Việt Nam. 
Ngoài ra, có bài hát được cho là cổ nhất, lâu đời nhất của người Chăm An Giang, đó là bài Hát ru con. 
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 98 – 111 
108 
Bài hát ru được được ra đời từ khi người Chăm 
Islam sinh sống ở Campuchia (Được chị Mamiri 
kể lại từ cha mình). Chính sự giao thoa về văn hóa 
này đã tạo nên nét đặc trưng trong bài Hát ru con 
cổ của dân tộc Chăm An Giang. Nghiên cứu cho 
thấy, giai điệu bài hát này được hình thành trên cơ 
sở các quãng ngũ cung mà nó mang khá đậm nét 
âm nhạc người Khmer và tương tự điệu Vũ trong 
ngũ cung trong âm nhạc người Việt Nam. 
Có thể nói, nếu bài Hát ru là bài hát cổ nhất của 
người Chăm An Giang thì bài Hát cầu an (Pateu 
Epalih), Hát mừng nhà mới (Salawat) là những 
bài hát của họ có niên đại khá lâu do những người 
lớn tuổi, các cả làng truyền lại. Tuy vậy, đa số các 
bài truyền thống hiện nay đã bị thất truyền, người 
trẻ không biết đến những bài hát này. 
Nội dung trong bài Hát cầu an: Đây là bài hát 
dành cho tập thể. Về hình thức biểu diễn, cả làng 
đi đầu, tay cầm đoạn cây hay một con dao dài, 
vừa đi vừa hát bài Hát cầu an cùng người trong 
xóm, tay phát qua trái, phải ngụ ý đuổi ma, đuổi 
quỷ ra khỏi xóm để người dân trong làng, xóm 
được bình an sinh sống. Người hát gồm tất cả 
người trong làng, xóm, đi thành đoàn, hết xóm tạo 
thành hình vuông 4 góc chung quanh làng, xóm. 
Đến mỗi góc, đoàn người dừng lại, một người đại 
diện đọc kinh (Phàn). Khi đọc hết, đoàn người 
tiếp tục di chuyển đến 3 góc còn lại trong làng và 
thực hiện cách thức như trên. 
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 98 – 111 
109 
Đây cũng là bài hát dành cho loại hình hát tập thể, 
nội dung trong Hàt mừng nhà mới (Salawat) thể 
hiện: Dân làng đến chúc mừng nhà mới của một 
gia đình trong làng. Họ ngồi quây quần bên nhau, 
vừa hát, vừa vỗ tay theo nhịp (không sử dụng 
trống Ráp Pà-nà). Người đứng chỉ chấp tay – 
không vỗ tay và hát, lắc lư theo giai điệu bài hát. 
4.2 Âm nhạc đương đại của người Chăm An 
Giang 
Hiện nay, cùng chung sự tác động như giới trẻ 
người Chăm Ninh Thuận, giới trẻ người Chăm An 
Giang cũng có hạn chế trong việc phát triển âm 
nhạc dân tộc, nhất là âm nhạc truyền thống. Với 
âm nhạc đương đại của người Chăm Ninh Thuận 
hiện nay, tất cả những loại nhạc cụ, bài hát, điệu 
múa của họ đang là mối quan tâm của các nhà 
nghiên cứu văn hóa và âm nhạc, bởi vì, nó đang 
trên đà mai một dần. Đây cũng là yếu tố khách 
quan khi âm nhạc hiện đại của thế giới tác động 
mạnh mẽ đến thế hệ trẻ của người Chăm nói 
chung. Có thể nói, âm nhạc hiện đại có một sức 
hút rất mạnh với những đặc điểm là dễ nghe, dễ 
tiếp cận và hợp với tâm lý tuổi trẻ. Trong khi đó, 
các bài hát, nhạc cụ truyền thống của người 
Chăm thì khó chơi, khó thể hiện đúng với bản 
chất của nó, đồng thời phải cần thời gian tập luyện 
lâu dài để thấm dần thì người hát, người chơi nhạc 
cụ mới có thể chơi tốt và hay được. Hiện nay, có 
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 98 – 111 
110 
rất nhiều bạn trẻ là người Chăm không hát được 
những làn điệu dân ca, điệu ngâm ariya và không 
biết đánh các loại trống, không thổi được kèn 
Saranai của dân tộc mình. Thiết nghĩ, những 
hạn chế này tất yếu sẽ làm biến đổi dần sắc thái 
âm nhạc, tính phong phú của truyền thống văn 
hóa của một dân tộc. Và như vậy, chuyện mai một 
trong âm nhạc, các điệu múa truyền thống của 
người Chăm là điều không tránh khỏi. Đây chính 
là vấn đề chúng ta cần phải quan tâm và phải có 
giải pháp hợp lý. 
Từ thực trạng đó, các nhạc sĩ, những người hoạt 
động nghệ thuật đã cố gắng khơi dậy tính truyền 
thống trong các ca khúc mới, dựa trên nền tảng 
của tiết điệu hiện đại nhằm thu hút giới trẻ người 
Chăm nhằm hạn chế việc đánh mất bản sắc, sự 
thiêng liêng trong tín ngưỡng. Trong đó, chúng ta 
phải kể đến công lao của những nhà hoạt động 
nghệ thuật như: Biên đạo múa Đăng Hùng, nhạc 
sĩ người Chăm Amư Nhân, cố nhạc sĩ Đàng Năng 
Quạ, cố nhạc sĩ TanTu, Phan Quốc Anh, nghệ sĩ 
Đàng Năng Đức, ca sĩ Bonner Trinh đã sáng tác 
và thể hiện thành công những bài ca Chăm như: 
Bến nước tình yêu (Amư Nhân); Điệu ru đất Tháp 
(Đàng Năng Đức); Mùa xuân trên tháp cổ (Amư 
Nhân), Gặp em đêm hội Ramuvan (Amư Nhân), 
Âm nhạc của người Chăm An Giang cũng không 
nằm ngoài sự ảnh hưởng và bối cảnh như vậy. Có 
thể nói, qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy, có 
rất nhiều yếu tố bất cập, khó khăn trong việc giữ 
gìn và phát huy các giá trị truyền thống giống với 
âm nhạc của người Chăm Ninh Thuận, cụ thể ở 
một số khía cạnh như sau: 
Thứ nhất, như đã phân tích trên đây, các bài hát 
truyền thống không được định hình rõ nét, số 
lượng lại không nhiều do yếu tố khách quan về 
văn hóa, địa lí, lịch sử Giới trẻ người Chăm 
ngày nay đa số sử dụng những bái hát có giai điệu 
vay mượn của người Malaysia, người Việt, kể cả 
người Khmer. Điều này vô hình trung góp phần 
tạo nên sự khủng hoảng về giá trị nghệ thuật, 
không định hướng được sự phát triển âm nhạc 
trong hiện tại và tương lai của dân tộc mình. 
Thứ hai, những khó khăn của những người hoạt 
động nghệ thuật và nghiên cứu khoa học lĩnh vực 
nghệ thuật nói chung hiện nay đối với người 
Chăm An Giang là chưa có công trình nghiên cứu 
theo chiều sâu về học thuật chuyên sâu về âm 
nhạc nói riêng và nghệ thuật nói chung của người 
Chăm An Giang nhằm tìm ra được thang âm, điệu 
thức chính xác để từ đó làm căn cứ cho sự phát 
triển sau này. 
Tuy nhiên, để khắc phục và nâng tầm nghệ thuật 
mang bản sắc văn hóa dân tộc Chăm An Giang, 
cũng là để giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa 
truyền thống, những người hoạt động nghệ thuật 
tỉnh An Giang cũng đã có những đóng góp không 
nhỏ trong bước phát triển, định hướng âm nhạc 
hiện tại và trong tương lai cho người Chăm An 
Giang. Phải kể đến đó là những nhạc sĩ: Lâm 
Thanh Bình, Võ Thắng, Phan Ngọc, Phương 
Đông với nhiều tác phẩm nghệ thuật mang đậm 
nét dân tộc như Tổ khúc Nurisha – Lâm Thanh 
Bình, Làng Chăm bên sông Hậu – Võ Thắng, An 
Giang miền đất đứng – Phan Ngọc, đã góp 
phần giữ gìn bản sắc âm nhạc Chăm đương đại. 
Trong biểu diễn, người Chăm An Giang cũng có 
những giọng ca trẻ đạt các giải thưởng cao, góp 
phần làm cho âm nhạc đương đại có sức sống 
mới, dấy lên phong trào sinh hoạt âm nhạc phong 
phú hơn, hấp dẫn hơn. Có thể kể đến cô gái Chăm 
Khotygeh – người đạt Huy chương vàng Liên 
hoan giọng hát hay lực lượng vũ trang phía Nam 
năm 1991. Và năm 1993, cô gái Chăm duyên 
dáng, xinh đẹp Sarigiar cũng đã giành Huy 
chương vàng giọng hát hay phát thanh - truyền 
hình toàn quốc 
5. KẾT LUẬN 
Truyền thống và đương đại là “sợi dây” không thể 
tách biệt. Để phát triển nền âm nhạc đương đại, 
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 98 – 111 
111 
người Chăm cần phải giữ gìn, khai thác, phát triển 
từ giá trị truyền thống âm nhạc của dân tộc mình. 
Có như vậy, người Chăm mới có thể sáng tạo ra 
giá trị nghệ thuật mới nhằm tạo sự cuốn hút, khơi 
dậy lòng nhiệt quyết, tự tôn dân tộc của giới trẻ 
người Chăm. Việc đào tạo cơ bản, bồi dưỡng về 
nghệ thuật, kết hợp cùng các cơ quan quản lý nhà 
nước tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động 
nghệ thuật, những sân chơi mới mẽ, phù hợp và 
sáng tạo đảm bảo liên tục cho cộng đồng người 
Chăm là yếu tố không thể thiếu trên con đường 
bảo tồn và phát huy các giá trị âm nhạc truyền 
thống, phát triển âm nhạc đương đại là điều có ý 
nghĩa lý luận và thực tiễn vô cũng quan trọng. 
Đến lượt nó, sự phát triển âm nhạc một cách 
phong phú, hấp dẫn sẽ góp phần quan trọng không 
chỉ trong việc quảng bá hình ảnh dân tộc Chăm 
trong cộng đồng quốc tế trên con đường hội nhập 
mà còn góp phần phát triển kinh tế - xã hội của 
đất nước. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Ban Chỉ đạo Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số 
tỉnh An Giang.(2019). Báo cáo chính trị Đại 
hội đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh An 
Giang lần thứ III năm 2019 (Số 01). An 
Giang: BC-BCĐ.ĐH. 
Đình Hy – Trương Tốn. (1995). Nhạc cụ truyền 
thống dân tộc Chăm. Ninh Thuận: Sở Văn hóa 
Thông tin tỉnh Ninh Thuận. 
Dohammide. (1967). Tục thưởng xuân của đồng 
bào Chàm Hồi giáo. Tạp san Sử - Địa, số 5. 
Lâm Tâm. (1994). Một số tập tục người Chăm An 
Giang. An Giang: Chi hội Văn nghệ Dân gian 
An Giang. 
Nguyễn Thụy Loan. (2001). Thưởng thức về Âm 
nhạc cổ truyền Việt Nam và lịch sử âm nhạc. 
Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục. 
Nguyễn Thụy Loan (2007). Giáo trình Lịch sử Âm 
nhạc thế giới. Cty cổ phần KOV: Nhà xuất bản 
Đại học Sư Phạm. 
Nguyễn Văn Luận. (1974). Người Chàm Hồi giáo 
miền Tây Nam Phần Việt Nam. Sài Gòn: Bộ 
Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên. 
Nguyễn Quang Điển. (2006). Biến đổi kinh tế, văn 
hóa, xã hội của cộng đồng người Chăm và 
Khmer tại thành phố Hồ Chí Minh. Hồ Chí 
Minh: Nhà xuất bản Đại học quốc Gia. 
Sơn Nam. (1988). Lịch sử An Giang. An Giang: 
Nhà xuất bản Tổng hợp An Giang. 
Tỉnh ủy An Giang. (2018). Báo cáo tình hình thực 
hiện nhiệm vụ chính trị năm 2017; phương 
hướng nhiệm vụ năm 2018. (Tài liệu phục vụ 
Đoàn công tác của đồng chí Tổng Bí thư 
Nguyễn Phú Trọng). 
Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang. (2013). Địa chí 
An Giang. An Giang: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy 
An Giang. 
Võ Văn Thắng., Nguyễn Thị Ngọc Thơ., & Đỗ 
Thị Thanh Hà. (2018). Người Chăm Islam ở 
An Giang. Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, 412, 
115-120. 

File đính kèm:

  • pdfam_nhac_truyen_thong_va_duong_dai_cua_nguoi_cham_an_giang.pdf