Âm nhạc dân gian “Cò ke ôống kháo” trong đời sống cộng đồng làng Mường

Trong bối cảnh xã hội hiện đại, nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống đứng trước nguy cơ bị quên

lãng và mất đi, nhưng “Cò ke ôống kháo” - một loại hình âm nhạc dân gian của người Mường vẫn tồn

tại một cách bền bỉ trong đời sống cộng đồng làng Mường. Tìm hiểu những thực hành âm nhạc “Cò ke

ôống kháo” cũng như vai trò, ý nghĩa của “Cò ke ôống kháo” trong sinh hoạt tín ngưỡng và sinh hoạt đời

thường của người Mường, giúp chúng ta lý giải về sức sống bền bỉ và sự trường tồn của nó trong đời sống

văn hóa của cộng đồng làng Mường

pdf 8 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Âm nhạc dân gian “Cò ke ôống kháo” trong đời sống cộng đồng làng Mường", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Âm nhạc dân gian “Cò ke ôống kháo” trong đời sống cộng đồng làng Mường

Âm nhạc dân gian “Cò ke ôống kháo” trong đời sống cộng đồng làng Mường
29Số 31 (Tháng 3 - 2020)
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
ÂM NHẠC DÂN GIAN “CÒ KE ÔỐNG KHÁO” 
TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐỒNG LÀNG MƯỜNG
TRẦN BẠCH DƯƠNG*
Tóm tắt 
Trong bối cảnh xã hội hiện đại, nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống đứng trước nguy cơ bị quên 
lãng và mất đi, nhưng “Cò ke ôống kháo” - một loại hình âm nhạc dân gian của người Mường vẫn tồn 
tại một cách bền bỉ trong đời sống cộng đồng làng Mường. Tìm hiểu những thực hành âm nhạc “Cò ke 
ôống kháo” cũng như vai trò, ý nghĩa của “Cò ke ôống kháo” trong sinh hoạt tín ngưỡng và sinh hoạt đời 
thường của người Mường, giúp chúng ta lý giải về sức sống bền bỉ và sự trường tồn của nó trong đời sống 
văn hóa của cộng đồng làng Mường.
Từ khóa: Cò ke ôống kháo, âm nhạc dân gian, nghệ nhân dân gian, văn hóa dân gian, làng Mường, 
người Mường, Hòa Bình
Abstract
In the context of modern society, many traditional cultural factors are facing the danger of being 
forgotten and lost, but “Co ke oong khao” - a type of folk music of Muong people still exists persistently in 
the life of Muong village community. Understanding the musical practices of “Co ke oong khao” as well 
as the role and meaning of “Co ke oong khao” in the religious activities and daily life of the Muong people 
is also to explain the enduring vitality and its longevity in the cultural life of Muong village community.
Keywords: Co ke oong khao, folk music, folk artisan, folklore, Muong village, Muong people, 
Hoa Binh
Âm nhạc - theo cách hiểu đơn giản nhất, đó là sự lựa chọn, tái tạo và sắp đặt âm thanh của con người. 
Âm nhạc phổ biến ở mọi tộc người trên thế 
giới, bởi vì con người ở mọi không gian và thời 
gian luôn có hứng thú với những âm thanh 
được sắp đặt ấy. Mỗi tộc người lại có những 
cách thức sáng tạo và sử dụng âm nhạc khác 
nhau, tùy vào cách họ hiểu thế nào là âm nhạc 
và nó có ý nghĩa gì đối với họ.
Ở Việt Nam, nếu người Kinh có Nhã nhạc 
cung đình, phường Bát âm; người Thái sở 
hữu các loại Pí, Tính Tẩu, Khèn bè,... thì người 
Mường có “Cò ke ôống kháo”. Thông qua mô 
tả, phân tích việc sử dụng âm nhạc “Cò ke 
ôống kháo” của người Mường trong những bối 
cảnh cụ thể, có thể lý giải những thông điệp 
mà họ gửi gắm trong đó, đồng thời chỉ ra vai 
trò, ý nghĩa của “Cò ke ôống kháo” đối với đời 
sống cộng đồng làng Mường. 
1. Cộng đồng làng Mường trong mối tương 
quan với “Cò ke ôống kháo” 
Người Mường thường dùng từ xóm hay 
quêl để chỉ nơi cư trú của mình, những từ này 
tương đương với làng. Dân số của một làng 
Mường thường ở trong khoảng vài chục gia 
đình, mỗi gia đình có khoảng 4 - 6 người. Về 
mặt địa lý, làng Mường được phân định bằng * ThS., Khoa Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
Số 31 (Tháng 3 - 2020)30
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
ranh giới của đất ở, những cánh rừng và ruộng 
canh tác [5, tr.28-29]. 
Jeanne Cuisinier, trong cuốn Người Mường 
- địa lý nhân văn và xã hội học, đã dành nhiều 
trang viết về làng Mường. Bà mô tả làng 
Mường thường ở gần nguồn nước (suối, sông 
nhỏ), đây là nơi diễn ra các sinh hoạt thiết yếu 
hàng ngày: lấy nước, tắm giặt, rửa rau, giết 
mổ gia súc, gia cầm,... và “nó rải ra trên một 
diện tích rộng hơn diện tích cần thiết cho số 
dân” [2, tr.129]. Bà cũng viết về “lãnh chúa”1 
với tư cách là một đặc trưng xã hội của làng 
Mường, người Mường gọi vị “lãnh chúa” này 
là lang. Pierre Grossin, trong cuốn Tỉnh Mường 
Hòa Bình, cũng nhận định rằng, lang tức là các 
chúa đất, đứng đầu một làng, tại đây quyền 
lực của lang là tuyệt đối, đặc biệt đối với việc 
sở hữu và phân chia sở hữu ruộng đất [4, 
tr.72-82]. 
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chế 
độ lang đạo bị xóa bỏ, vai trò của lang đã lui vào 
quá khứ, nhưng ở làng Mường, một số vị trí xã 
hội và thiết chế văn hoá truyền thống như: thầy 
Mo, thầy Thường, ông T’lượng, bà Mỡi, miếu thờ 
(hoặc đình), ban nhạc “Cò ke ôống kháo” hay 
phường Xắc Bùa, vẫn tồn tại đến bây giờ và 
đều thuộc về một làng Mường cụ thể. 
Hiện nay, theo phân chia địa giới và quản lý 
hành chính của Nhà nước, làng Mường tương 
đương với một xóm hoặc tổ dân phố. Nó được 
gắn với một cơ cấu tổ chức xã hội, gồm có: 
Trưởng xóm (hay tổ trưởng), Chi bộ Đảng, Mặt 
trận tổ quốc, Hội phụ nữ, Hội nông dân...
Như vậy, kể cả thời kỳ trước và sau 1945, 
làng Mường vẫn là một cộng đồng xã hội có 
các mối liên hệ chặt chẽ và tương đối độc lập. 
Cộng đồng làng Mường được hiểu là một đơn 
vị dân cư (có tổ chức) nhỏ nhất của tộc người 
Mường, cùng cư trú trong một môi trường tự 
nhiên, chia sẻ bối cảnh kinh tế, xã hội chung, 
cùng thừa nhận những di sản văn hóa Mường là 
một phần trong bản sắc văn hóa của họ.
Thông thường, mỗi làng Mường luôn có 
một nhóm nghệ nhân “Cò ke ôống kháo”, và họ 
tập hợp thành ban nhạc2 “Cò ke ôống kháo”3 
của làng. Số lượng các nghệ nhân thường biến 
động (người mất do tuổi già, kẻ đi làm ăn xa...), 
nhưng dù số lượng ít hay nhiều thì họ chỉ tập 
hợp với nhau thành 01 ban nhạc ở mỗi làng. 
Theo khảo sát của tác giả bài viết, tại thời điểm 
năm 2019, có những làng Mường chỉ còn 1 - 2 
nghệ nhân, không đủ để tạo thành một ban 
nhạc, mỗi khi cần đến âm nhạc “Cò ke ôống 
kháo”, họ phải “mượn” người hoặc ghép với 
ban nhạc của làng khác, thậm chí có làng hoàn 
toàn phải nhờ đến ban nhạc ở các làng lân cận. 
Song, đó chỉ là những trường hợp hãn hữu 
không phổ biến. 
2. Các không gian trình diễn âm nhạc “Cò ke 
ôống kháo” 
2.1. Trình diễn âm nhạc “Cò ke ôống kháo” 
tại đám tang 
Theo mô tả của Cuisinier, ban nhạc đám ma 
Mường là “một ban nhạc nhỏ gồm từ năm đến 
mười bốn người chơi nhạc”, trong đó, người 
thợ kèn là quản đốc của ban nhạc, ông ta có 
quyền lựa chọn kết nạp hoặc khai trừ những 
người chơi nhạc khác. Cuisinier cũng ghi nhận 
chỉ có 04 bài nhạc và nhận xét rằng nội dung 
các bài nhạc này “rất nghèo nàn” [2, tr.678-680]. 
Trong thực tế, thành viên của ban nhạc đám 
ma là các nghệ nhân “Cò ke ôống kháo”. Chỉ 
khác về tổ chức dàn nhạc, nó gồm các nhạc khí 
“Cò ke ôống kháo” (02 nhạc khí chủ chốt là đàn 
nhị, sáo trúc và các nhạc khí khác như trống 
con, chũm chọe, đàn tam, đàn bầu) cộng 
với 03 nhạc khí dành riêng cho tang lễ (kèn, 
trống cái và chiêng đơn). Trong đó, chiếc kèn 
đám ma (kèn xona) là nhạc khí phải có tại đám 
tang. Người Mường coi âm sắc của kèn là thứ 
chuyên dùng cho các nghi lễ4, đặc biệt là trong 
tang ma5, nhưng vì không được dùng ở những 
không gian khác nên nó không thuộc về biên 
chế “Cò ke ôống kháo”. Người thổi kèn thường 
là trưởng nhóm nghệ nhân “Cò ke ôống kháo”, 
về điểm này Cuisinier quả thực đã có lý khi 
xem nhân vật này là quản đốc của ban nhạc. 
Mặc dù trống cái và chiêng cũng được sử dụng 
cùng lúc, nhưng không thể xem đó là sự hòa 
tấu vì chúng trình bày theo một âm hình tiết 
31Số 31 (Tháng 3 - 2020)
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
tấu độc lập, chẳng liên quan tới bài bản của 
chiếc kèn và “Cò ke ôống kháo”. 
Trình tự tham gia của ban nhạc “Cò ke ôống 
kháo” tại lễ tang như sau: Trước tiên, gia đình 
tang chủ phải đi mời ban nhạc “Cò ke ôống 
kháo”. Họ mang theo lễ vật, thường là vài lá 
trầu, một chai rượu và một ít tiền (20 - 50 ngàn 
VNĐ) đến gặp người trưởng nhóm “Cò ke ôống 
kháo”. Họ trình bày lý do rằng trong gia đình vừa 
có người chết, cần sự giúp đỡ của ban nhạc để 
việc tổ chức tang ma được chu đáo, đúng theo 
tục lệ. Người trưởng nhóm sau khi kiểm tra lịch 
làm việc của ban nhạc, sẽ nhận lễ và nhận lời rồi 
thông báo cho các thành viên khác. 
Tại đám tang, người ta sắp xếp một khu 
vực ngồi dành riêng cho ban nhạc, đó là một 
khoảng không gian đủ rải một chiếc chiếu đôi, 
một chiếc giường hay phản gỗ. Ở đó, họ được 
phục vụ nước trà, thuốc lá và những bữa cơm. 
Ban nhạc sẽ trình tấu âm nhạc từ lúc phát tang 
cho đến khi kết thúc tại nơi hạ huyệt. Âm nhạc 
trong đám tang Mường không có thể loại “hát 
khóc”6 như ở đám tang của người Kinh, chỉ 
đơn thuần là bài bản hòa tấu của các nhạc khí.
Bài bản “Cò ke ôống kháo” trên thực tế có 
nhiều hơn 04 bài như ghi nhận của Cuisinier. 
Ngoài một số bản nhạc phổ biến chung nơi 
nào cũng có, ở mỗi làng Mường lại có những 
bài bản riêng. Các bản nhạc thường gắn với 
một thủ tục hay một nghi thức cụ thể và được 
gọi theo tên nghi thức ấy. Ví dụ: Bài Dâng cơm 
dùng trong nghi thức dâng cơm cho người 
chết; Hót loóng để mời cơm người sống (người 
trong gia đình và những người phục vụ); Đi 
đàng (đi đường) dùng trên đường đưa người 
chết đến nơi chôn cất; Mo trâu dùng khi cúng 
cơm có thịt trâu; Lưu thủy trung dành để đón 
những người đến phúng viếng. 
Vấn đề cần tìm hiểu là: Nếu xem chiếc kèn 
đám là nhạc khí chính ở đám tang, thì “Cò ke 
ôống kháo” được sử dụng tại đây để làm gì? 
Qua phỏng vấn các nghệ nhân “Cò ke ôống 
kháo”, chúng tôi được họ cho biết “Cò ke ôống 
kháo” vừa hòa tấu, vừa được dùng luân phiên 
với kèn đám. Bởi: Thứ nhất, chẳng ai có thể 
liên tục thổi kèn hết bài này sang bài khác mà 
không ngừng nghỉ. Thứ hai, kèn đám là một 
nhạc khí có âm sắc nỉ non giống như tiếng 
khóc của con người, hơn nữa âm lượng của 
nó rất lớn. Vì vậy, kể cả trong tang lễ thì người 
Mường cũng ngại phải thường xuyên sử dụng 
chiếc kèn này. Nó mang lại cảm giác ảo não, 
day dứt, bức bối đến nỗi chẳng ai có thể chịu 
đựng lâu. Và khi người ta đã quá mệt mỏi với 
tiếng kèn đám, thì đó là lúc “Cò ke ôống kháo” 
được sử dụng. Khác với tiếng kèn, “Cò ke ôống 
kháo” có âm lượng nhỏ, âm sắc mềm mại, cùng 
với các bài bản có nhịp độ vừa phải, giai điệu 
nhẹ nhàng khiến cho người ta có được những 
giây phút nghỉ ngơi, thư giãn trấn an tinh thần. 
Cũng bởi thế, “Cò ke ôống kháo” thường được 
dùng nhiều hơn vào lúc đêm khuya, khi mà cả 
làng Mường đi vào giấc ngủ, ban nhạc này sẽ 
phục vụ cho phần diễn xướng của thầy Mo từ 
đêm cho đến gần sáng. Có lẽ đó là lý do rất 
chính đáng để người Mường sử dụng “Cò ke 
ôống kháo” ở đám tang. 
2.2. Trình diễn âm nhạc “Cò ke ôống kháo” 
tại lễ hội
Cũng trong cuốn sách của Cuisinier, chương 
XI - Nghi lễ mừng năm mới, phần mô tả về “thết 
làng”7 có đoạn nói về sự trình tấu của hai nhạc 
khí sáo và đàn: “Ở Quy Mỹ, trong phần hai của 
buổi lễ, nghĩa là sau khi thổ lang ở đình ra về, 
nổi lên một bản nhạc nhỏ gồm sáo và đàn làm 
át tiếng cầu cúng” [2, tr.756]. Giải thích về “đàn”, 
bà viết: “Đây là loại đàn, tiếng Annam gọi là “cai 
co ke”, tức là đàn nhị”. Như vậy, Cuisinier đã ghi 
nhận sự có mặt của “sáo và đàn” tại một lễ hội 
Mường. Theo những mô tả ít ỏi ấy, có thể tin 
rằng đây là hình ảnh của “Cò ke ôống kháo”. 
Trong các đợt nghiên cứu điền dã, chúng tôi 
đã được thấy ban nhạc “Cò ke ôống kháo” tại 
lễ hội Khai hạ diễn ra hàng năm ở đình Ngòi 
(xã Sủ Ngòi, thành phố Hoà Bình); ở Mường Bi 
(xã Phong Phú, huyện Tân Lạc); lễ rước Bụt ở 
Mường Vang (huyện Lạc Sơn) năm 2018 (lễ hội 
này tổ chức định kỳ 3 năm một lần). Và theo 
như người dân Mường chia sẻ, các lễ hội của 
người Mường ở Hòa Bình từ xưa đến nay đều 
có sự tham gia của ban nhạc “Cò ke ôống kháo”.
Số 31 (Tháng 3 - 2020)32
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Tham gia trong đoàn rước 
Trong các lễ hội truyền thống của người 
Mường trước đây, hình ảnh “Cò ke ôống kháo” 
tham gia vào các đám rước còn được thấy thấp 
thoáng trong bài Mo Đẻ Tá Cần:
“Cun lang Tá Cần bước chân lên lưng ngựa
Người tinh mường bước theo sau
Chuyển theo những đàn hát, đàn chầu
Đàn đáy, đàn nhị, ống sáo, ống tiêu
Thanh la dóng hiệu, trống kiệu cầm quân” 
[7, tr.127]
Hay trong bài khấn Mỡi chuyển quân: 
“ Cho Vua Cha đi mường xa thắng thế
Dọn lấy trống cái, dọn lấy trống đồng
Dọn trống bồng trống bạt
Dọn trống hát trống chầu
Đàu bầu, đàn đáy, cò ke
Trỉ bè ống gọi nói sơn đỏ võ vàng” [6, 
tr.140].
Diễn trình của các lễ hội thường bắt đầu 
bằng nghi thức rước kiệu. Xuất phát từ nơi thờ 
tự (đình làng, miếu thờ, hang thờ), đoàn rước 
sẽ thực hiện một hành trình với những nội 
dung khác nhau8. 
Trong đoàn rước, ban nhạc “Cò ke ôống 
kháo” đi trong nhóm đầu, chỉ sau 2 hoặc 3 
người đánh trống, chiêng. Một lần nữa, chúng 
tôi không xếp những người đánh trống chiêng 
vào biên chế ban nhạc “Cò ke ôống kháo”, vì 
hai phần trình tấu này tách biệt nhau, nhịp 
trống chiêng trình bày một tiết tấu riêng, đơn 
điệu9 và không ăn nhập với các bản nhạc của 
“Cò ke ôống kháo”. Ban nhạc “Cò ke ôống kháo” 
thì cứ tấu bài bản của họ mà chẳng mảy may 
quan tâm đến nhịp trống chiêng trì thục ấy. 
Cảm giác trải nghiệm thực tế cho thấy, 
tiếng chiêng trống với âm lượng lớn nên nghe 
thấy được từ rất xa, như một tín hiệu báo cho 
cả cộng đồng biết về hành trình của đoàn rước. 
Âm nhạc “Cò ke ôống kháo” có âm lượng nhỏ 
hơn nhiều, chỉ những người trong đoàn rước 
mới nghe thấy. Bài bản âm nhạc dùng trong lễ 
rước này gồm chỉ duy nhất một bài Đi đường, 
nó được các nghệ nhân trình diễn lặp đi lặp 
lại trong suốt hành trình của đám rước. Chỉ khi 
dừng lại tại nơi hành lễ, ban nhạc “Cò ke ôống 
kháo” mới chuyển sang các bài bản khác10. 
Phục vụ tại nơi cúng tế
Sau lễ rước là lễ tế, người ta thường chọn 
một khoảng không gian đủ rộng để hành lễ. 
Lễ hội Khai hạ Mường Bi chọn sân vận động 
xã Phong Phú; lễ hội rước Bụt ở xã Nhân Nghĩa 
chọn cánh đồng bên cạnh hang Bụt dưới chân 
núi Dúng (Khụ Dúng); lễ hội Khai hạ đình Ngòi 
được tổ chức ngay tại sân đình Ngòi. 
Trong thời gian tổ chức lễ tế, ban nhạc “Cò 
ke ôống kháo” được sắp xếp ở vị trí bên phải, 
sát cạnh ban thờ hành lễ. Họ trình diễn luân 
phiên các bài bản trong khi người ta thực hiện 
các nghi thức cúng tế và chỉ tạm dừng khi thầy 
Mo trình bày lời khấn. 
Cuộc thi “Bản âm”
Gần đây, lễ hội Khai hạ Mường Bi có một 
cuộc thi dành riêng cho các ban nhạc “Cò ke 
ôống kháo”, gọi là cuộc thi “Bản âm”. Thuộc 
phạm vi giữa các xã trong huyện Tân Lạc, thành 
viên của mỗi ban nhạc tham gia cuộc thi là các 
nghệ nhân được lựa chọn trong cùng một xã. 
Cuộc thi năm 2016 có ban nhạc của 5 xã: Phú 
Cường, Tử Nê, Mãn Đức, Quý Hòa, Phong Phú. 
Ông Bùi Văn K., người từng làm việc ở Phòng 
Văn hóa - Thông tin huyện Tân Lạc cho chúng 
tôi biết: Nghĩa đen của từ “Bản âm” dùng để 
chỉ vị trí dành riêng cho ban nhạc “Cò ke ôống 
kháo” ở trong một không gian nào đó, nó cũng 
được hiểu là tên gọi khác của ban nhạc này. 
Cuộc thi Bản âm ở lễ hội Khai hạ Mường Bi là 
sáng kiến của Phòng Văn hóa - Thông tin, được 
tổ chức nhằm mục đích khuyến khích sự phát 
triển của loại hình âm nhạc dân gian này. Có 
một vài điểm chúng tôi ghi nhận được từ cuộc 
thi này như sau:
Thứ nhất, không có sự tham gia của kèn 
đám, trống cái và chiêng, đúng theo quan 
niệm đây là các nhạc khí chỉ dành riêng cho 
nghi lễ, không dùng để giải trí.
Thứ hai, thay vào đó người ta sẵn sàng bổ 
sung đủ các loại nhạc khí khác nhau, miễn 
33Số 31 (Tháng 3 - 2020)
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
sao họ có sẵn nhạc khí đó cùng người biết sử 
dụng nó (ở trình độ rất khác nhau). Chúng tôi 
đã thấy họ mang tới đây đàn bầu, đàn nguyệt, 
mandolin, violon, các loại chũm chọe to nhỏ, 
và cả những ống nứa để giữ nhịp,11 nhưng 
có lẽ người ta dùng các nhạc khí này để làm 
đẹp về hình ảnh là chính, mà ít quan tâm đến 
hiệu quả âm nhạc. 
Thứ ba, người xem rất đông, song không 
chú trọng đến việc thưởng thức âm nhạc, bởi 
họ liên tục nói chuyện, xô đẩy nhau, gây ồn ào, 
át cả phần trình diễn của ban nhạc. 
2.3. Sinh hoạt âm nhạc “Cò ke ôống sáo” 
tại nhà riêng của nghệ nhân 
Thời gian dành cho sinh hoạt âm nhạc 
thường là sau bữa cơm tối và kéo dài đến đêm 
khuya. Các nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” sẽ tập 
hợp tại nhà của một thành viên trong nhóm 
theo lịch hẹn trước. Họ chuẩn bị một bàn uống 
nước trà (bàn trà nước lá), thêm vài chén rượu 
để nhấm nháp. Họ hòa tấu các bài bản với 
nhau, nhận xét góp ý cho nhau về ngón đàn, 
câu nhạc, xen lẫn các câu chuyện tâm tình. Họ 
cũng thường nhân dịp này để truyền dạy nghề 
cho học trò. Những buổi sinh hoạt âm nhạc 
như thế diễn ra thường xuyên, nhất vào dịp 
đầu năm mới. Sau chén rượu xuân ấm áp và 
những lời chúc tụng, việc chơi đàn và thưởng 
thức âm nhạc lúc này cho họ những cảm xúc 
thư giãn, thăng hoa tuyệt vời.
Sinh hoạt “Cò ke ôống kháo” được coi là 
một thú vui tao nhã và không bị kiêng kỵ như 
luyện tập kèn đám, trống cái. Cả làng Mường 
đều biết đến sinh hoạt này, đôi khi họ còn 
tới thưởng thức âm nhạc và tham gia vào các 
cuộc trò chuyện. 
3. Vai trò và ý nghĩa của “Cò ke ôống kháo” 
đối với cộng đồng làng Mường
3.1. “Cò ke ôống kháo” đáp ứng nhu cầu 
thẩm mỹ
Ở hình thức sinh hoạt “Cò ke ôống kháo” 
tại nhà của các nghệ nhân, chúng ta dễ dàng 
nhận thấy lý do chính đáng là để thỏa mãn 
nhu cầu thẩm mỹ âm nhạc của họ. Không chỉ 
thế, tại các không gian khác thì tính thẩm mỹ 
của “Cò ke ôống kháo” cũng là yếu tố để người 
ta dùng đến nó.
Chúng tôi hỏi thầy Mo Bùi Văn T ở xã Sủ 
Ngòi: “Có khi nào đám tang không sử dụng âm 
nhạc “Cò ke ôống kháo”?”. Ông cho biết, việc 
không có âm nhạc “Cò ke ôống kháo” tại tang 
lễ có lẽ chưa bao giờ xảy ra. Bản thân ông cho 
rằng “Cò ke ôống kháo” là một yếu tố để tăng 
thêm sự long trọng, uy nghi của các nghi lễ. 
Còn những người trong gia đình tang chủ thì 
tin rằng âm nhạc “Cò ke ôống kháo” là một sự 
chăm sóc dành cho linh hồn người chết, giúp 
cho linh hồn ấy được trấn an, xoa dịu, thanh 
thản để trải qua các nghi lễ tang ma và về an 
nghỉ ở nơi chôn cất. Bên cạnh đó, chính bản 
thân họ cũng cảm thấy được âm nhạc an ủi 
trước nỗi buồn tang gia (PVS, ngày 29/4/2019). 
Chi tiết các gia đình tang chủ đi mời ban nhạc, 
chăm sóc và cảm ơn họ cũng cho thấy sự tôn 
trọng của cộng đồng đối với ban nhạc “Cò ke 
ôống kháo”.
Ở đám rước trong lễ hội, nếu âm thanh của 
trống và chiêng vang xa nhằm báo hiệu cho cả 
làng Mường biết về hành trình của đám rước, 
thì âm nhạc “Cò ke ôống kháo” với âm lượng 
nhỏ, nhẹ nhàng có lẽ là món ăn tinh thần mà 
người ta chủ ý dành cho các vị thần trong đám 
rước ấy. 
Chúng tôi muốn luận xa hơn rằng, nếu 
sáng tạo và thưởng thức âm nhạc nhằm mục 
đích thẩm mỹ là hiện tượng phổ biến ở các 
nền văn hóa, thì mặt khác, nghi lễ tín ngưỡng 
là những thực hành luôn được người ta dành 
cho những ưu tiên. Nó biểu hiện từ sự chu 
đáo trong chuẩn bị, bài trí các lễ vật, đồ trang 
trí, đến việc dùng lời hay ý đẹp trong các bài 
khấn Trong bối cảnh đó, âm nhạc được sử 
dụng ở đây là một sự sắp xếp hợp lý. “Cò ke 
ôống kháo” đã mang lại một không gian khác 
thường, nó như một thứ trang sức làm cho 
nghi lễ của người Mường trở nên đẹp đẽ và 
linh thiêng hơn. Nói cách khác, giá trị thẩm mỹ 
trong âm nhạc “Cò ke ôống kháo” là một lý do 
để người Mường dùng nó trong các thực hành 
tín ngưỡng của mình. 
Số 31 (Tháng 3 - 2020)34
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Như vậy, có thể khẳng định “Cò ke ôống 
kháo” đáp ứng nhu cầu về thẩm mỹ trong sinh 
hoạt đời thường và sinh hoạt tín ngưỡng của 
cộng đồng làng Mường.
3.2. “Cò ke ôống kháo” mang tính biểu 
tượng
Khi tổ chức tang ma hay lễ hội, người ta đều 
dùng đến “Cò ke ôống kháo”, nó trở thành dấu 
hiệu để cộng đồng biết rằng đang có sự kiện gì 
diễn ra ở đây. Và bởi “Cò ke ôống kháo” là của 
người Mường nên nó trở thành một biểu tượng 
góp phần tạo nên bản sắc văn hóa riêng của họ. 
 Mặt khác, cách sử dụng nhạc khí dường 
như còn phản ánh quan điểm vũ trụ luận của 
người Mường và cả những điều mà người 
Mường trông đợi. Đi sâu vào chiều cạnh này, 
chúng tôi nhận thấy các quan niệm về cõi trần 
gian và cõi thiêng được bộc lộ như sau: 
+ Kèn, trống cái được gắn với thế giới thần 
và ma (cõi thiêng), chỉ dùng trong các nghi lễ, 
không sử dụng để giải trí hàng ngày.
+ Cò ke, ôống kháo và các nhạc khí khác 
gắn với thế giới người (cõi trần gian). Nó là một 
thành phần của cuộc sống con người, được 
các nghệ nhân dùng để giải trí hàng ngày.
Điều thú vị ở chỗ, khi ban nhạc “Cò ke ôống 
kháo” trình diễn tại đám tang hay lễ hội, các 
nhạc khí của hai thế giới này sẽ cùng hòa tấu. 
Phải chăng đó là thông điệp mà người Mường 
muốn bày tỏ một cách kín đáo rằng đây là 
khoảng thời gian khác thường, là dịp để hai 
thế giới có thể giao tiếp, đồng hành với nhau. 
Qua đó, có thể thấy “Cò ke ôống kháo” 
mang tính biểu tượng khá rõ. Trong phạm 
vi bài viết, chúng tôi chưa đề cập tới kết quả 
phân tích các bài bản âm nhạc của nó, bởi lẽ 
mỗi tác phẩm âm nhạc sẽ mang trong nó tính 
biểu tượng ít hay nhiều, điều đó xin được tiếp 
tục ở một bàn luận khác.
3.3. “Cò ke ôống kháo” tạo sự đồng cảm 
và chia sẻ trong cộng đồng
Từ sự đồng cảm giữa nghệ nhân “Cò ke ôống 
kháo” và gia đình tang chủ
Gia đình tang chủ là những người phải 
chịu đựng cảm giác đau đớn, xót xa khi mất đi 
người thân. Họ phải trải qua các chi tiết trong 
tang lễ: sự khóc than, những người đến viếng, 
mùi hương đậm đặc, tiếng chiêng trống, kèn 
đám và những bài bản âm nhạc “Cò ke ôống 
kháo”. Sự chia sẻ từ âm nhạc khiến họ được an 
ủi, thấu hiểu, có lẽ đó là lúc mà họ cảm thấy âm 
nhạc “Cò ke ôống kháo” trở nên gần gũi nhất. 
Ví dụ, người ta sẽ trình tấu bài Hót loóng12 mỗi 
khi gia đình tang chủ dùng bữa. Lúc này, họ 
(những người chịu tang) ngồi lại bên nhau, an 
ủi và động viên nhau ăn uống, đảm bảo sức 
khỏe để tiếp tục trải qua các nghi thức của 
tang lễ. Âm nhạc của bài Hót loóng rất thong 
thả, nhẹ nhàng, khiến người nghe có được 
những giây phút thư giãn, nghỉ ngơi. 
Đến sự đồng cảm trong cộng đồng làng 
Mường 
Tang lễ là sự kiện mà hầu hết ai cũng phải 
trải qua trong cuộc đời của mình. Khi những 
người đã từng chịu tang đến thăm viếng các 
đám tang khác, tại đây họ lại được chứng kiến 
những chi tiết mà họ đã từng trải qua và ghi 
nhớ: sự khóc than, mùi hương đậm đặc, tiếng 
chiêng trống, kèn đám và những bài bản âm 
nhạc “Cò ke ôống kháo”. Lúc này, cảm giác 
khi mất mát người thân trong chốc lát được 
tái hiện. Điều đó khiến họ dễ đồng cảm với 
gia đình tang chủ hơn. Họ nhận ra một điều 
hiển nhiên rằng, nỗi đau bởi sự chia lìa sinh 
tử là chung đối với tất cả những người đang 
còn sống. Điều đó tạo nên một tâm lý đồng 
cảm, chia sẻ chung trong cộng đồng, mà “Cò 
ke ôống kháo” là một yếu tố đóng góp vào đó. 
3.4. “Cò ke ôống kháo” với vai trò giáo 
dục, truyền nghề 
Các thực hành nghề nghiệp cũng như các 
sinh hoạt và truyền dạy “Cò ke ôống kháo”, 
phần nào cho thấy vai trò giáo dục của “Cò 
ke ôống kháo”. Nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” 
thường kết hợp việc luyện tập và sinh hoạt 
âm nhạc với truyền dạy nghề. Ngoài ra, học 
trò còn được đi cùng các nghệ nhân để thực 
35Số 31 (Tháng 3 - 2020)
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
tập trong các dịp trình diễn “Cò ke ôống kháo”. 
Việc học nghề có thể kéo dài hoặc rút ngắn tùy 
theo khả năng của học trò, những người học 
giỏi thường thành nghề sau 2 - 3 năm [1]. Hơn 
nữa, trong quá trình truyền dạy bài bản và kỹ 
thuật “Cò ke ôống kháo”, các nghệ nhân còn 
yêu cầu các học trò phải rèn luyện đạo đức, lối 
sống, cũng như phải am hiểu phong tục tập 
quán, chí ít là các thủ tục trong tang lễ để hành 
xử sao cho đúng tại các không gian này. 
Đạo đức và lối sống của các nghệ nhân 
cũng tạo nên uy tín của họ trong xã hội, qua 
đó họ trở thành tấm gương, hình mẫu văn hóa 
trong cộng đồng Mường. Sự kính trọng, yêu 
mến và gần gũi của người dân Mường với các 
nghệ nhân là những minh chứng cụ thể cho 
vai trò giáo dục truyền thống của “Cò ke ôống 
kháo”.
Với người học, “Cò ke ôống kháo” là một 
môi trường để rèn luyện và bộc lộ tài năng. 
Có khá nhiều trường hợp nghệ nhân kèn và 
các ông Mo bắt đầu sự nghiệp từ việc học tập 
và rèn luyện “Cò ke ôống kháo”. Thầy Mo Đinh 
Công T. ở xã Mỹ Hòa, huyện Tân Lạc cho biết, 
nhóm nghệ nhân “Cò ke ôống kháo” của ông 
hầu hết còn có thể thực hành diễn xướng Mo. 
Hay như thầy Mo Nguyễn Văn T. ở xã Sủ Ngòi, 
trước kia cũng là một nghệ nhân “Cò ke ôống 
kháo”. 
Có thể nói rằng, ban nhạc “Cò ke ôống 
kháo” như là một môi trường để các cá nhân 
được rèn luyện và phát triển tài năng, năng lực 
của mình. Điều đó thêm một sự khẳng định về 
vai trò giáo dục của “Cò ke ôống kháo”.
Kết luận
“Cò ke ôống kháo” - một loại hình âm nhạc 
dân gian, được người Mường sử dụng ở không 
gian sinh hoạt tín ngưỡng và cả trong sinh 
hoạt đời thường. 
Người Mường xem âm nhạc “Cò ke ôống 
kháo” là sản phẩm văn hóa tinh thần giàu 
thẩm mỹ, vì thế họ dùng nó để trang sức cho 
các nghi lễ tín ngưỡng, đồng thời là sợi dây kết 
nối tạo sự đồng cảm, chia sẻ trong cộng đồng. 
“Cò ke ôống kháo” phần nào mang ý nghĩa 
biểu tượng, nó phản ánh quan niệm của người 
Mường về cõi trần gian, cõi thiêng và có thể 
có cả mong muốn của họ về mối quan hệ giữa 
hai thế giới. Trong đời sống, các nghệ nhân 
Mường sử dụng “Cò ke ôống kháo” vừa nhằm 
mục đích giải trí, vừa mang ý nghĩa giáo dục 
truyền thống. 
Từ nửa sau thế kỷ XX đến nay, cộng đồng 
làng Mường trải qua nhiều biến động, bắt đầu 
từ việc xóa bỏ chế độ lang đạo, gần đây là sự 
biến đổi văn hóa dưới sự tác động ngày càng 
mạnh mẽ của xu hướng giao lưu hội nhập. 
Trong bối cảnh đó, không ít yếu tố văn hóa cổ 
truyền bị ảnh hưởng, thậm chí dần mai một. 
Nhưng “Cò ke ôống kháo” vẫn âm thầm tồn 
tại, như mạch nước ngầm nuôi sống các thực 
hành văn hóa cổ truyền gắn với nó. Điều đó 
càng khẳng định vai trò, ý nghĩa của “Cò ke 
ôống kháo” đối với cộng đồng làng Mường và 
văn hóa Mường. 
T.B.D
Chú thích
1 Người Mường gọi là Thổ Lang, người Thái gọi 
là Thổ Ty, người Việt gọi là Quan Lang [2, tr. 440]. 
2 Về phương diện âm nhạc học, “Cò ke ôống 
kháo” là một dàn nhạc. Song ở bài viết này, chúng 
tôi dùng từ “ban nhạc” để nhấn mạnh yếu tố con 
người trong dàn nhạc đó. Đây cũng là cách gọi 
thông thường của người Mường dành cho tổ 
chức dàn nhạc này.
3 “Cò ke ôống kháo” hiểu theo nghĩa đen là từ 
ghép của tên gọi hai nhạc khí: “Cò ke” và “ôống 
kháo” (đàn nhị; sáo trúc). Đây là hai nhạc khí chủ 
chốt vì chúng diễn tấu giai điệu chính. “Cò ke 
ôống kháo” theo nghĩa thường dùng là một tổ 
chức dàn nhạc gồm có “Cò ke”, “ôống kháo” và các 
nhạc khí khác như: trống con, chũm chọe, đàn 
tam, đàn bầu [1].
4 Chiếc kèn này chỉ trình tấu một bài bản duy 
nhất tên là Lâm khốc, ban nhạc “Cò ke ôống kháo” 
thường sẽ cùng hòa tấu bài bản ấy, nhưng người 
ta chỉ coi đó là sự hỗ trợ mà thôi.
Số 31 (Tháng 3 - 2020)36
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
5 Có 02 người kể với tác giả bài viết câu chuyện 
về sự tích chiếc kèn đám ma như sau: Ngày xưa, 
có một anh chàng bị câm bẩm sinh, cũng vì thế 
nên anh chưa được cô gái nào ưng thuận lấy làm 
chồng dù đã đến tuổi lập gia đình. Do đó, anh 
vẫn ở với cha mẹ. Đến một ngày cha mẹ mất vì 
già yếu, anh rất đau buồn, muốn khóc lóc, than 
thở với linh hồn cha mẹ nhưng ngặt nỗi không 
thốt được lời nào. Thế rồi anh chế tạo ra chiếc kèn 
và dùng nó để cất lên những giai điệu đau buồn 
thay cho tiếng khóc của mình. Khi mọi người biết 
chuyện, ai cũng cảm động, và kể từ đó chiếc kèn 
được người dân Mường dùng để thay lời khóc 
trong đám tang (PVS, thầy Mo Đinh Công Tỉnh, xã 
Mỹ Hòa, huyện Tân Lạc và ông Bùi Quang Hiên, 
Phó chủ tịch UBND xã Phong Phú, huyện Tân Lạc, 
ngày 20-21/7/2019).
6 “Hát khóc” là trình bày giọng hát có sự phụ 
họa của các nhạc khí. Người hát là một thành 
viên của ban nhạc đám ma, họ “thay lời” gia đình 
tang chủ để thể hiện những bài ca than thở về 
nỗi buồn trước sự ra đi của người chết. 
7 “Thết làng” nghĩa là “tết làng”.
8 Đó là nghi lễ rước nước, rước vía lúa trong 
lễ hội Khai hạ đình Ngòi; hay tới một cánh đồng 
đã chọn sẵn để chứng kiến người dân thực hiện 
đường cày đầu tiên trong năm mới ở lễ hội Khai 
hạ Mường Bi; hoặc đơn giản hơn là tại lễ hội rước 
Bụt, xã Nhân Nghĩa, đoàn rước chỉ thực hiện một 
hành trình vòng quanh làng xóm, rồi dừng chân 
ở cánh đồng trước nơi thờ tự để tiến hành lễ 
cúng tế.
9 Nhịp trống chiêng đánh trì thục: Tùng, tùng 
- cheng (ứng với trường độ âm nhạc phương Tây 
là: đen, đen - trắng).
10 Bản nhạc Đi đường được dùng ở lễ hội Khai 
hạ Mường Bi và lễ rước Bụt xã Nhân Nghĩa. Riêng 
ở lễ Khai hạ đình Ngòi, Ban tổ chức yêu cầu ban 
nhạc “Cò ke ôống kháo” tập luyện và chơi theo 
bản nhạc Lưu thủy của người Kinh được phát trên 
một chiếc loa di động kéo đi cùng với đoàn rước.
11 Người ta cắt các ống nứa to, dài khoảng 1m 
hoặc ngắn hơn, giao cho các thiếu nữ mỗi người 
cầm hai ống, họ dộng một đầu ống xuống đất 
theo nhịp, và thỉnh thoảng lại đập hai ống này vào 
nhau. Có lẽ là một sáng kiến ở thời gian gần đây.
12 Hót loóng có nghĩa đen là uống nước cây 
chuối. Ông Nguyễn Văn Tân ở Sủ Ngòi giải thích 
rằng, tại các đám tang họ đun một nồi nước để 
vừa luộc thịt, vừa ninh xương. Từ nồi nước này, 
họ nấu thành món canh với lõi cây chuối rừng 
thái nhỏ. Trong đám tang đông người, thường 
không thể tính toán được số lượng người ăn. Vì 
vậy, món canh chuối trở nên thuận tiện, mỗi khi 
gần hết họ chỉ cần cho thêm nước, gia vị và chuối 
(các nguyên liệu luôn có sẵn) để bổ sung.
Tài liệu tham khảo
1. Trần Bạch Dương (2019), “Nghệ nhân “Cò ke 
ôống kháo” trong đời sống cộng đồng Mường ở 
Hoà Bình”, Tạp chí Nghiên cứu Văn hoá, số 28.
2. Jeanne Cuisinier (1948), Người Mường - Địa 
lý nhân văn và xã hội học (Bản dịch của Sở Văn 
hóa - Thông tin tỉnh Hòa Bình, tái bản lần thứ 
nhất 2007), Nxb. Lao động, Hà Nội.
3. Bùi Văn Kín, Mai Văn Trí, Nguyễn Phụng 
(1972), Góp phần tìm hiểu tỉnh Hòa Bình, Ty Văn 
hóa - Thông tin tỉnh Hòa Bình, Hòa Bình. 
4. Pierre Grossin (1926) (tái bản 1994), Tỉnh 
Mường Hòa Bình, Lê Gia Hội dịch, Sở Văn hoá - 
Thông tin tỉnh Hòa Bình, Nxb. Lao động, Hà Nội. 
5. Nguyễn Ngọc Thanh, Trần Hồng Thu (chủ 
biên) (2009), Tri thức địa phương của người Mường 
trong sử dụng và quản lý tài nguyên thiên nhiên, 
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
6. Bùi Thiện (sưu tầm, biên dịch, giới thiệu) 
(2015), Đẻ đất đẻ nước và phong tục đạo lý nhân 
văn Mường, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
7. Ủy ban nhân dân tỉnh Hòa Bình (2010), Mo 
mường Hòa Bình, Hòa Bình.
Ngày nhận bài: 16 - 01 - 2020
Ngày phản biện, đánh giá: 5 - 2 - 2020
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 3 - 2020

File đính kèm:

  • pdfam_nhac_dan_gian_co_ke_oong_khao_trong_doi_song_cong_dong_la.pdf