ACO là hen hay COPD hay cả hai ?
ACO (Asthma-COPD overlap) hay Chồng lấp Hen – COPD là một thuật ngữ xuất hiện sau nhằm
mô tả sự chồng lấp các biểu hiện của hai bệnh nền tảng – Hen và COPD – trên cùng một bệnh nhân.
Hiện nay người ta vẫn chưa biết rõ rằng liệu sự chồng lấp trong ACO là do 2 bệnh Hen và COPD
cùng xuất hiện hay ngược lại, là một thể bệnh hoàn toàn khác biệt có kiểu bệnh học đặc trưng. Sự
quan tâm của y giới về ACO trong những năm gần đây và hiện tại thể hiện qua sự gia tăng các bài
báo nghiên cứu, tổng quan về cơ sở sinh lý bệnh, di truyền, cách tiếp cận chẩn đoán và bằng chứng
điều trị hiệu quả cho ACO. Trong phạm vi bài tổng quan này, người viết tổng hợp các bằng chứng
và quan điểm hiện tại, có khi còn mâu thuẫn, của các nhà nghiên cứu và chuyên gia trên thế giới về
nguồn gốc của ACO thông qua các dữ liệu của các thử nghiệm lâm sàng, hướng dẫn thực hành, quan
điểm chuyên gia về vấn đề mới nổi này.
Tóm tắt nội dung tài liệu: ACO là hen hay COPD hay cả hai ?
Tổng quan 13 Hô hấp số 16/2018 ĐẶT VẤN ĐỀ Hen và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là hai bệnh lý mạn tính của đường hô hấp có tần suất mắc bệnh cao, và cũng có một phần không nhỏ những bệnh nhân (BN) có những biểu hiện đồng thời của cả Hen và COPD. Guideline về COPD của Tây Ban Nha (GesEPOC) năm 2012 là tài liệu hướng dẫn đầu tiên đề cập đến dạng bệnh này, và gọi tên là Kiểu hình hỗn hợp COPD-Hen (4). Từ đó, dạng bệnh này được gọi dưới nhiều danh pháp khác nhau, nhưng được chấp nhận rộng rãi nhất là ACO (Asthma-COPD overlap). Cho đến hiện nay, vẫn chưa có một bộ tiêu chuẩn thống nhất để xác định chẩn đoán ACO trên một BN đã có Hen hoặc COPD từ trước. Người ta vẫn chưa biết rõ rằng liệu sự chồng lấp trong ACO là do 2 bệnh Hen và COPD cùng xuất hiện trên cùng 1 BN hay, ngược lại, là một thể bệnh khác có kiểu bệnh học đặc trưng (4). Từ năm 1961, Orie và Sluter đã đưa ra một giả thuyết về nguồn gốc chung của Hen và COPD, được biết đến là với tên gọi là thuyết của người Hòa Lan. Theo đó, dù có cùng một nền tảng bệnh lý, biểu hiện khác nhau của Hen và COPD là do sự tương tác giữa yếu tố nội sinh và môi trường (1,5). Vì vậy, ACO có chăng cũng là một biểu hiện của bệnh lý nền tảng này. Mặt khác, chúng ta đã biết rằng chính Hen và COPD cũng là các bệnh có tính chất “đa dạng” (heterogeneous). Vì vậy, cũng có nhiều trường phái cho rằng có cần thiết không khi định nghĩa sự chồng lấp của chúng bằng một khái niệm mới - ACO (1). Vậy, ACO vốn là Hen, hay là COPD, hay cả hai, hay thậm chí ACO là một bệnh lý riêng biệt? TỔNG QUAN VÀ LỊCH SỬ ACO Vào những năm gần đây, ngày càng có nhiều sự quan tâm trong giới y học về việc phân biệt các đặc điểm của ACO với Hen và COPD. Về mặt lâm sàng, nhóm BN ACO bao gồm các BN Hen có hút thuốc lá đã phát triển tắc nghẽn luồng khí cố định, và các BN COPD có các đặc điểm của Hen (4). Năm 2013, tác giả Louie và cs đã định nghĩa ACO là một trong hai kiểu hình lâm sàng như sau (3): ACO LÀ HEN HAY COPD HAY CẢ HAI? BSCKII. LƯƠNG VÕ QUANG ĐĂNG Tóm tắt: ACO (Asthma-COPD overlap) hay Chồng lấp Hen – COPD là một thuật ngữ xuất hiện sau nhằm mô tả sự chồng lấp các biểu hiện của hai bệnh nền tảng – Hen và COPD – trên cùng một bệnh nhân. Hiện nay người ta vẫn chưa biết rõ rằng liệu sự chồng lấp trong ACO là do 2 bệnh Hen và COPD cùng xuất hiện hay ngược lại, là một thể bệnh hoàn toàn khác biệt có kiểu bệnh học đặc trưng. Sự quan tâm của y giới về ACO trong những năm gần đây và hiện tại thể hiện qua sự gia tăng các bài báo nghiên cứu, tổng quan về cơ sở sinh lý bệnh, di truyền, cách tiếp cận chẩn đoán và bằng chứng điều trị hiệu quả cho ACO. Trong phạm vi bài tổng quan này, người viết tổng hợp các bằng chứng và quan điểm hiện tại, có khi còn mâu thuẫn, của các nhà nghiên cứu và chuyên gia trên thế giới về nguồn gốc của ACO thông qua các dữ liệu của các thử nghiệm lâm sàng, hướng dẫn thực hành, quan điểm chuyên gia về vấn đề mới nổi này. Tổng quan 14 Hô hấp số 16/2018 - Hen với tắc nghẽn luồng khí có hồi phục một phần, có hoặc không kèm theo khí phế thũng hoặc có sự giảm khả năng khuếch tán khí CO (DLCO) <80% giá trị dự đoán. - COPD có khí phế thũng kèm theo tắc nghẽn luồng khí có hồi phục hoàn toàn hoặc một phần, có hoặc không có kèm theo dị ứng với các tác nhân môi trường hoặc giảm DLCO. Năm 2014, GINA và GOLD đã công bố một bản hướng dẫn chung về ACO, lúc này được gọi tên là ACOS. Hướng dẫn này liệt kê một loạt các đặc điểm của Hen và COPD, qua đó một BN nếu có đồng thời một số đặc điểm của cả 2 bệnh thì có thể được chẩn đoán là ACOS. Mặc dù hướng dẫn này có vẻ cụ thể và chi tiết, tuy nhiên lại thiếu tính chuẩn xác bởi vì nó không chỉ ra cần phải có bao nhiêu đặc điểm và có cần thiết số đặc điểm phải có của mỗi bên tương đương nhau (3, 13). Năm 2017, tại Tây Ban Nha, một đồng thuận chung của các chuyên gia thuộc hai lĩnh vực Hen và COPD (GesEPOC-GEMA) về ACO đã được công bố (4). Theo đó, một BN ≥ 35 tuổi sẽ được chẩn đoán ACO khi hội đủ 3 yếu tố (hình 1): (1) Có tiếp xúc khói thuốc lá có ý nghĩa: đang hoặc đã từng hút thuốc lá > 10 gói-năm; (2) Có giới hạn luồng khí dai dẳng mạn tính: FEV 1 /FVC < 0,7 sau dùng thuốc giãn phế quản hoặc corticosteroid đường hít hoặc thậm chí đường toàn thân; (3) Đang được chẩn đoán hen, theo tiêu chuẩn của GEMA. Chẩn đoán Hen theo GEMA (4) cần thiết phải có cả (a) và (b): Tiền sử và/hoặc các triệu chứng gợi ý: Tiền sử gia đình có Hen hoặc bản thân có Hen từ nhỏ hoặc bản thân có các bệnh dị ứng (mẫn cảm với một số dị ứng nguyên nhất định). Các triệu chứng hô hấp (khò khè, ho, nặng ngực) thay đổi từng đợt, thỉnh thoảng có những cơn khó thở kịch phát có độ nặng cũng thay đổi, hoặc viêm đường hô hấp trên: viêm mũi xoang có hoặc không kèm theo polyp mũi. (b) Bằng chứng khách quan của: Hiện tượng tắc nghẽn có sự đảo ngược qua đo hô hấp ký. Nếu yếu tố (3) không thỏa, ACO vẫn có thể được chẩn đoán nếu đáp ứng hồi phục phế quản dương tính mạnh (≥ 15% và ≥ 400 mL), hoặc mức bạch ầu ái toan (BCAT) máu ngoại biên ≥ 300 con/µL, hoặc cả hai (4). Hình 1. Lược đồ chẩn đoán ACO theo GesEPOC-GEMA 2017 (4). Tần suất ACO trong dân số chung khoảng 1,6 - 4,5%, và khoảng 15 - 25% trong dân số BN có tắc nghẽn luồng khí mạn tính (4). Tuy nhiên, qua các nghiên cứu bệnh chứng so sánh ACO với Hen và COPD đơn thuần, các BN ACO có tần suất cơn kịch phát nhiều hơn các BN COPD, gánh nặng triệu chứng cũng nhiều hơn (khó thở và khò khè), chức năng phổi giảm nhanh hơn, mắc các bệnh đồng mắc nhiều hơn, dùng nhiều thuốc hơn, khả năng hoạt động thể chất và chất lượng cuộc sống cũng thấp hơn các BN Hen hoặc COPD đơn thuần (5). Chính vì vậy mà nguồn lực y tế chăm sóc cho các BN ACO cũng cao hơn 2 – 6 lần so với các BN Hen hoặc COPD (3). Một lý do khác khiến cho sự quan tâm của y giới đến ACO đó là vì hiện có quá ít các bằng chứng lâm sàng giúp chọn lựa điều trị. Các BN ACO đã bị loại trừ, một cách có hệ thống, khỏi các nghiên cứu về thuốc điều trị trong Hen và COPD bởi đơn giản vì họ không phải là các bệnh nhân “thuần khiết” (3, 5, 13). Trong khi đó, vấn đề sử dụng ICS hay không ở các BN COPD đang thực sự rất được quan tâm Tổng quan 15 Hô hấp số 16/2018 bởi vì hiệu quả với phác đồ điều trị có ICS ở các BN ACO khác hẳn với các BN COPD còn lại. ACO CÓ NGUỒN GỐC TỪ HEN? Ủng hộ: Theo tác giả Dikje S. và cs, khi BN qua 55 tuổi và FEV 1 giảm xuống thấp hơn 55% giá trị tiên đoán, ACO bắt đầu xuất hiện như là một giai đoạn cuối trong diễn tiến tự nhiên của cả Hen và COPD, (hình 2) (8). Vậy ACO thực sự có bắt nguồn từ Hen hay không? Và qua cơ chế nào?. Tác giả Janice M. Leung và Don D. Sin đã mô tả sự tiến triển và chuyển biến dần dần từ một BN Hen đơn thuần trở thành một BN có đặc điểm của cả Hen và COPD cần có sự tham gia của nhiều quá trình thay đổi về sinh lý bệnh (5). Theo đó, sự ảnh hưởng của các phần tử khí độc hại, vốn là tác nhân gây ra COPD, cũng góp phần trong sự hình thành tắc nghẽn luồng khí cố định ở các BN Hen nếu phơi nhiễm trong thời gian dài. Bên cạnh đó, hiện tượng khí phế thũng và sự giảm hoặc mất tính đàn hồi co lại (elastic recoil) của nhu mô phổi, vốn là đặc trưng của COPD, cũng được phát hiện ở các BN hen qua các xét nghiệm tử thiết. Người ta thấy rằng Hen, hút thuốc lá và tình trạng dị ứng (atopy) có sự tương tác lẫn nhau trong sự hình thành tắc nghẽn luồng khí cố định (3). Khoảng 1/4 các BN Hen có hút thuốc lá, và họ phải gánh chịu nguy cơ tiến triển đến tắc nghẽn luồng khí cố định và ACO cao hơn đáng kể so với các BN Hen không hút thuốc lá. Khói thuốc lá gây tái cấu trúc và làm tắc nghẽn các đường dẫn khí nhỏ ở BN Hen thông qua (5): (1) Sự tăng sản các tế bào hình ly, tăng tiết nhầy và (2) Hiện tượng viêm với BCAT ưu thế chuyển sang bạch cầu đa nhân trung tính (BCĐNTT) ưu thế với tăng sinh lympho T CD8+ như kiểu viêm trong COPD. Số lượng BCĐNTT và lympho T CD8+ tăng liên quan đến sự suy giảm nhanh chức năng phổi, giảm đáp ứng với test hồi phục phế quản và phát triển tắc nghẽn luồng khí trong Hen (5). Theo một số tác giả, yếu tố hút thuốc lá (hoặc tiếp xúc với chất đốt sinh khối) là một yếu tố cần phải có để chẩn đoán ACO (3). Hiện tượng tắc nghẽn luồng khí cố định trên một BN Hen chưa bao giờ hút thuốc lá thì không thể được chẩn đoán là ACO. Khi đó, một chẩn đoán thích hợp có thể là “Hen với tắc nghẽn luồng khí không hồi phục”. Bên cạnh khói thuốc lá, không khí ô nhiễm (có chứa các hạt bụi mịn, carbon monoxide, chì, sulphur dioxide, nitrogen oxides, và ozone) có thể gây ra các tác động có hại đối với BN Hen, như các cơn Hen kịch phát, cấp cứu và nhập viện vì Hen. Có nhiều cơ chế đóng góp trong tác động này, gồm rối loạn điều hòa chức năng lympho T, hoạt hóa các toll-like receptor-2 (TLR-2) và TLR- 4 có nhiệm vụ điều hòa các đáp ứng miễn dịch bẩm sinh, gia tăng stress oxi hóa và hiện tượng viêm qua trung gian các cytokine. Tất cả hoặc một vài trong số các cơ chế trên có thể gây ra hiện tượng chuyển đổi kiểu hình từ Hen sang ACO. Vì vậy, ô nhiễm không khí là một yếu tố khởi kích quan trọng trong cơ chế sinh bệnh của ACO (5). Khí phế thũng, căng phồng phổi và giảm tính đàn hồi co lại của nhu mô phổi là những điểm đặc trưng của COPD, tuy nhiên những đặc điểm này cũng xuất hiện ở giai đoạn muộn của Hen phế quản nặng. Từ năm 1967, ba tác giả Gold, Kaufman, và Nadel đã chứng minh rằng các BN Hen nặng kéo dài trên 5 năm có sự giảm mức đàn hồi co lại của nhu mô phổi đáng kể so với người khỏe mạnh. Các nghiên cứu sau này cho thấy hiện tượng này cũng xuất hiện ở các BN Hen ổn định và diễn tiến không có sự hồi phục (5). Về cấu trúc giải phẫu của mô phổi trong Hen, các nghiên cứu tử thiết trên các BN Hen nặng đã cho thấy có hiện tượng giảm các sợi đàn hồi trong phổi và khí thũng trung tâm tiểu thùy nhẹ lan tỏa cả thùy trên phổi. Cơ chế được cho là các cơn Hen kịch phát tái đi tái lại sẽ gây ra hiện tượng viêm tại các tiểu phế quản, gây kích hoạt các men protease như neutrophil elastase, cathepsin G và matrix metalloprotease (MMP). Tất cả các men này đều góp phần phá hủy nhu mô phổi (5). Giai đoạn muộn của Hen phế quản bắt đầu có sự xuất hiện của khí phế thũng và tính đàn hồi của nhu mô phổi giảm đi, khiến cho Hen chuyển dần sang một kiểu hình khác, đó là ACO. Tổng quan 16 Hô hấp số 16/2018 Hình 2. Giả thuyết về diễn tiến chức năng phổi ở BN Hen và COPD (8). Chống lại: So với các BN Hen đơn thuần, BN ACO có tốc độ suy giảm chức năng phổi (FEV 1 % giá trị dự đoán) nhanh hơn lên đến 20% và tần suất đợt kịch phát tăng lên gấp 4-5 lần (5). Một nghiên cứu tại Phần Lan trên 391 BN Hen người lớn trong độ tuổi lao động mới được chẩn đoán, có 6,6% BN có tắc nghẽn luồng khí dai dẳng (FEV 1 /FVC sau test giãn phế quản <70% giá trị dự đoán) được chẩn đoán là ACO. So với các BN Hen còn lại, các BN ACO có khuynh hướng lớn tuổi hơn, nam giới chiếm đa số, đang hoặc đã từng hút thuốc lá chiếm tỷ lệ cao hơn, nhưng tỷ lệ các bệnh dị ứng, đặc biệt là viêm mũi dị ứng lại ít hơn. Về tiền căn gia đình, các BN ACO có cha mẹ, anh chị em mắc Hen nhiều hơn, và các bệnh dị ứng (không kèm Hen) ít hơn là các BN Hen đơn thuần (7). Từ những phát hiện trên, các tác giả nhận định rằng tiền sử bản thân hoặc gia đình mắc các các bệnh dị ứng là một yếu tố làm tăng chẩn đoán Hen nhưng lại làm giảm khả năng chẩn đoán ACO. ACO CÓ NGUỒN GỐC TỪ COPD? Ủng hộ: Theo Dikje S. và cs, ACO xuất hiện như là một giai đoạn cuối trong quá trình tiến triển của cả Hen và COPD, bắt đầu khi BN qua 55 tuổi và FEV 1 giảm xuống thấp hơn 55% giá trị tiên đoán (hình 2) (8). Với một bối cảnh ngược lại với phần trên, một BN COPD đơn thuần xuất hiện những biểu hiện của Hen, đòi hỏi phải có sự hiện diện của cả 3 đặc điểm bệnh học trong Hen: mẫn cảm với các dị ứng nguyên, tăng phản ứng đường dẫn khí, và hiện tượng viêm thông qua trung gian Th 2 và BCAT (5). - Hiện tượng mẫn cảm với các dị ứng nguyên đã được xác định với tỷ lệ lên đến 25-30% BN COPD, đặc biệt là các BN lớn tuổi. Những BN này thường biểu hiện triệu chứng dị ứng ở đường hô hấp trên và tăng IgE đáp ứng với các dị nguyên xuất hiện quanh năm. Hiện tượng mẫn cảm với dị ứng nguyên có liên quan đến suy giảm chức năng phổi ở người hút thuốc lá và gia tăng triệu chứng cũng như tần suất đợt kịch phát ở các BN COPD. - Tăng phản ứng đường dẫn khí là một đáp ứng cấp tính của đường thở với các kích thích lên cây phế quản, như là với methacholine hoặc histamine. Ngoài Hen, hiện tượng này cũng xảy ra ở khoảng ¼ các BN COPD và có liên quan đến sự suy giảm nhanh FEV 1 và tăng tỷ lệ tử vong liên quan hô hấp. Khi thực hiện test kích thích phế quản, có đến 25-50% BN COPD có đáp ứng, xảy ra chủ yếu ở các BN COPD mức độ trung bình đến nặng. Điều này có thể được lý giải là sự do tăng bề dày thành phế quản, tăng sinh cơ trơn phế quản làm kháng lực đường thở tăng cao và sự phá hủy các phế quản tận trong suốt tiến trình bệnh lý COPD, gọi chung là hiện tượng tái cấu trúc đường dẫn khí. Trong trạng thái bình thường luôn có sự đối trọng giữa lực co các cơ trơn phế quản và lực đàn hồi co lại của nhu mô phổi xung quanh. Khi COPD tiến triển, hiện tượng tăng phản ứng đường dẫn khí kết hợp với tái cấu trúc đường dẫn khí gây ra sự cân bằng này lệch về phía tăng co thắt cơ trơn đồng thời giảm tính đàn hồi co lại do sự phá hủy các cấu trúc đàn hồi và khí phế thũng, khiến cho đường dẫn khí hẹp nặng hơn. Trong COPD, vai trò của sự phá hủy các cấu trúc đàn hồi đóng góp phần lớn. Ngược lại, trong Hen, sự phì đại và tăng sản cơ trơn mới đóng vai trò chính trong tăng phản ứng đường dẫn khí. Từ hiểu biết này, chúng ta có thể thấy dù biểu hiện có giống nhau nhưng việc điều trị tình trạng tăng phản ứng đường dẫn khí trong COPD diễn tiến thành ACO có phần khác với điều trị tình trạng này trong Hen. Tổng quan 17 Hô hấp số 16/2018 - Hiện tượng viêm đường dẫn khí kinh điển trong COPD được nghĩ đến thông qua con đường Th 2 và BCĐNTT, nhưng cũng có một bộ phận nhỏ các BN COPD không hoàn toàn đúng với kiểu viêm này. Có khoảng 5% BN COPD biểu hiện kiểu viêm đường dẫn khí theo con đường Th 2 . Tác giả Christensen và cs đã tìm ra khoảng 100 dấu ấn gen liên quan đến kiểu viêm Th 2 ở các tế bào biểu mô đường thở của các BN COPD (5). Liệu các biểu hiện và dấu ấn gene liên quan đến Th 2 là một dạng trong biểu hiện đa dạng của COPD hay đặc hiệu cho ACO vẫn còn chưa rõ. Chống lại: Nhìn chung, các BN ACO có nhiều triệu chứng hơn, tốc độ suy giảm chức năng phổi (FEV 1 % giá trị tiên đoán) nhanh hơn lên đến 10%, nguy cơ mắc các đợt cấp cao hơn 4-5 lần so với các BN COPD (5), chất lượng cuộc sống cũng kém hơn mặc dù đời sống của họ có thể dài hơn (4, 11). Về dự hậu của BN ACO, đã có nhiều kết quả khác nhau từ các khảo sát. Một số kết luận rằng BN ACO có tỷ lệ tử vong tương đương hoặc cao hơn so với các BN Hen hoặc COPD đơn thuần (6). Nghiên cứu CHAIN (COPD History Assessment in Spain) đã chứng minh 125 BN COPD thỏa tiêu chuẩn chẩn đoán ACO có tỷ lệ sống còn sau 1 năm cao hơn các BN COPD còn lại không có ACO (11). Một nghiên cứu đoàn hệ khác ở Hokkaido ghi nhận 268 BN COPD, các BN có từ 2-3 đặc điểm giống Hen (có dị ứng, có BCAT máu tăng, và hồi phục phế quản) có tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân sau 10 năm lại thấp hơn các BN có ≤ 1 đặc điểm. Điều này có thể được lý giải do các BN ACO có đáp ứng tốt hơn với điều trị ICS (9). Về sinh lý bệnh, BN ACO có 3 đặc điểm chính khác biệt với COPD: có sự gia tăng hiện tượng viêm liên quan BCAT trong đường thở và toàn thân, có sự gia tăng đáp ứng hồi phục với test giãn phế quản và cuối cùng là có sự gia tăng đáp ứng với điều trị chứa ICS so với các BN COPD đơn thuần (3). - Một điểm khác biệt ở các BN ACO so với các BN COPD là có sự xuất hiện BCAT trong đàm. Hiện tượng viêm liên quan đến BCAT là chủ yếu xuất hiện trong Hen và thông qua trung gian lympho T CD4+. Còn trong COPD, hiện tượng viêm chủ yếu liên quan đến bạch cầu đa nhân trung tính và thông qua tế bào CD8+. Một nghiên cứu so sánh giữa các BN COPD đơn thuần và các BN COPD có kèm Hen trong trạng thái ổn định, mức BCAT trong đàm và trong máu ở nhóm BN có kèm Hen cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm BN COPD đơn thuần (3). - Đặt trong bối cảnh ACO là một bệnh riêng biệt, không phải là một giai đoạn cuối của COPD, BN ACO khác với các BN COPD chính là có tăng sự hồi phục phế quản (3). Đây là biểu hiện của hiện tượng tăng phản ứng phế quản (BHR – Bronchial hyper-responsiveness), rất thường gặp trong Hen, đặc biệt là những BN có nhiều triệu chứng. Trong COPD, có thể lên đến 2/3 số BN có sự hiện diện của BHR. Mức độ BHR càng cao liên quan đến nhiều triệu chứng hơn và tốc độ suy giảm chức năng phổi (FEV 1 ) càng nhanh. Cũng vì vậy mà nhiều tác giả khuyến cáo sử dụng test kích thích phế quản với các chất không kích thích co thắt cơ trơn trực tiếp (như histamine, manitol hoặc nước muối ưu trương) để chẩn đoán ACO ở những BN đã có chẩn đoán COPD (3). - Để tối ưu kết quả điều trị, các BN trong nhóm bệnh tắc nghẽn đường dẫn khí mạn tính có những đặc điểm lâm sàng và dự hậu và đáp ứng điều trị tương tự nhau cần được nhóm lại với nhau (6). Tất cả các khuyến cáo hiện hành đều đồng thuận rằng ACO cần được điều trị bằng thuốc khác với các BN COPD còn lại. Các BN ACO cần được lựa chọn đầu tay và rất có thể sẽ đáp ứng tốt với một thuốc ICS kết hợp với một thuốc giãn phế quản tác dụng kéo dài (3), như ICS kết hợp một thuốc kích thích beta 2 tác dụng kéo dài (LABA). Một nghiên cứu đoàn hệ trong dân số khảo sát các BN > 65 tuổi có chẩn đoán COPD kèm với Hen, kết quả cho thấy điều trị bằng ICS/ LABA sớm giảm có ý nghĩa thống kê nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân và nhập viện do COPD so với nhóm chỉ điều trị LABA đơn thuần (HR 0.84,95% CI: 0.77-0.91) (6). Trong nghiên cứu Tổng quan 18 Hô hấp số 16/2018 đoàn hệ ở Hokkaido (9), các BN COPD có kèm từ 2-3 đặc điểm của Hen có đáp ứng tốt (giảm tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân) với điều trị ICS, bất kể ICS được sử dụng ngay từ đầu hay sau đó, với thời gian dùng trung bình trên 2,5 năm. “ACO LÀ ACO” HAY “KHÔNG CẦN THIẾT CÓ THUẬT NGỮ ACO”? Không cần cần thiết có thuật ngữ ACO: ACO là một thuật ngữ chung bao trùm hai kiểu hình: các BN COPD có hiện tượng viêm tăng BCAT (e-COPD) và các BN Hen có hút thuốc lá bị tắc nghẽn luồng khí không hồi phục hoàn toàn (SA-smoking asthmatics) (1, 10). Tuy nhiên khi phân tích sâu hơn về các đặc điểm lâm sàng của cả e-COPD và SA, tác giả Luis P. và cs nhận thấy các BN e-COPD có tuổi khởi phát lớn hơn, nam giới chiếm đa số, số lượng thuốc lá hút nhiều hơn và có chức năng phổi suy giảm nhiều hơn (FEV 1 và DLCO). Ngược lại, các BN SA có nhiều đặc điểm về dị ứng hơn, IgE máu cao hơn, triệu chứng về đêm trội hơn, mức độ hồi phục phế quản cao hơn và nhiều bệnh đồng mắc hơn (loãng xương và trào ngược dạ dày thực quản), các so sánh đều khác biệt có ý nghĩa thống kê. Về các chỉ dấu sinh học của hiện tượng viêm, cả e-COPD và SA có sự tương đương về nồng độ các interleukin (IL) trong huyết thanh, như: IL- 5, IL-13 (viêm liên quan Th 2 ), IL-8, IL-17 (viêm liên quan neutrophile) và IL-6, TNF-α (viêm hệ thống). Nhưng khi xét về các chỉ dấu sinh học liên quan đến Th 2 khác (periostin, FeNO, và BCAT máu), có khoảng 49% các BN e-COPD có “tình trạng viêm Th 2 cao” so với tỷ lệ này ở các BN SA chỉ khoảng 30% (1, 10). Từ các dữ kiện trên, ta có thể thấy ACO không phải là một dạng bệnh đồng nhất, và vì vậy, khó có thể chấp nhận được một khuyến cáo điều trị chung cho cả 2 kiểu hình mà thực sự có những điểm khác nhau. Về mặt ngữ nghĩa, việc đưa ra thuật ngữ ACO cũng chỉ giúp xác định các BN COPD có thể đáp ứng tốt với điều trị có ICS. Về mặt thực hành lâm sàng, nếu tìm được một cách giúp xác định được những BN COPD có nền viêm đáp ứng với ICS thì có thể điều đó sẽ khiến cho thuật ngữ ACO không cần thiết nữa. Trong tương lai, các nghiên cứu tiếp theo về mức BCAT trong máu có thể sẽ chứng minh được sự hữu ích của dấu ấn này trong việc xác định những BN COPD có đáp ứng tốt với ICS. Nếu điều này xảy ra, có lẽ sự quan tâm về ACO hiện tại sẽ chuyển sang “COPD có tăng BCAT”, một chẩn đoán dễ hiểu và dễ áp dụng trong thực hành hơn (3). ACO là ACO, không phải Hen hay COPD: Theo thuyết của người Anh, ACO không phát triển từ Hen hay COPD, mà có một nguồn gốc bệnh lý riêng biệt. Các nghiên cứu về gen liên quan đến những biểu hiện bệnh lý trong Hen và COPD đã được tìm ra, tuy nhiên với ACO thì chưa. Các nghiên cứu về gen liên quan đến ACO chỉ mới đang trong giai đoạn bắt đầu và các nghiên cứu lớn hơn cần được thực hiện để tìm ra các gen gây ra hoặc liên quan đến ACO (5). Trong một nghiên cứu đầu tiên với mục tiêu tìm các chỉ dấu sinh học để chẩn đoán ACO (3), tác giả Iwamoto H. và cs đã khảo sát 4 chỉ dấu sinh học: SP-A (surfactant protein A) và sRAGE (soluble receptor for advanced glycation end products), MPO (myeloperoxidases) và NGAL (neutrophil gelatinase associated lipocalin). Khi so sánh với các BN Hen, BN ACO có mức SP-A huyết tương và MPO trong đàm cao hơn có ý nghĩa thống kê. Trong khi đó, chỉ có mức NGAL trong đàm ở các BN ACO cao hơn có ý nghĩa thống kê so với các BN COPD. Trong một nghiên cứu thứ hai được công bố 2 năm sau đó (14), tác giả Gao J., Iwanmoto H. và cs đã khảo sát 5 chỉ dấu sinh học trong đàm, bao gồm IL-13, MPO, NGAL, YKL-40 (chitinase-like protein), và IL-6, để tìm ra một chỉ dấu sinh học có khả năng giúp phân biệt được ACO với Hen và COPD một cách khách quan. Kết quả ghi nhận được cả 5 chỉ dấu sinh học trên có thể giúp phân biệt ACO với nhóm BN non-ACO (AUC ROC > 0.7). Riêng 3 chỉ dấu sinh học YKL-40, IL-6 và NGAL có thể giúp phân biệt ACO với cả Hen và COPD (AUC > 0.7). Tổng quan 19 Hô hấp số 16/2018 Tại Việt Nam, tác giả Dương Quý Sỹ và cs đã công bố một nghiên cứu đa trung tâm khảo sát các đặc điểm của BN Hen, COPD và ACO (12). Một trong các nhận định được đưa ra là các BN ACO trong nghiên cứu có nhiều điểm tương đồng về đặc điểm sinh học với Hen, như: tăng BCAT máu, tăng IgE, mức FENO cao; và cũng có nhiều điểm giống COPD về chức năng phổi, như: giới hạn luồng khí lưu thông ở ngoại vi, giảm DLCO, quãng đường đi bộ 6 phút ngắn và lượng oxy tiêu thụ tối đa (VO 2 max) cũng thấp. Tuy nhiên, có một số đặc điểm khác biệt có ý nghĩa thống kê ở các BN ACO so với cả Hen và COPD như: tỷ lệ ngưng thở lúc ngủ (OSA) mức độ từ trung bình trở lên thông qua chỉ số ngưng thở/thở chậm (AHI) và nồng độ Nitrit Oxide trong phế nang (CANO). Có một phát hiện thú vị giữa nhóm các BN Hen và ACO trong nghiên cứu này: FENO tăng cao cả trong Hen và ACO (lần lượt ở 89,4% và 64,4% BN) tuy nhiên CANO không tăng ở BN Hen mà chỉ tăng cao ở BN ACO (lần lượt ở 6,5% và 83% BN). CANO đã được nghiên cứu trong viêm phổi mô kẽ và OSA, và với phát hiện này CANO hứa hẹn có thể trở thành một chỉ dấu sinh học tốt góp phần chẩn đoán ACO trong thực hành lâm sàng. Nếu cả Hen và COPD không phải là các giai đoạn phải trải qua trước khi hình thành ACO, thì các biến cố hoặc tổn thương phổi sớm từ tuổi nhỏ có thể khởi phát cho tiến trình dẫn đến bệnh Hen, hoặc COPD, hoặc ACO sau khi trưởng thành. Mỗi bệnh lý có con đường phát triển riêng biệt. Để ủng hộ cho giả thuyết này, một nghiên cứu đoàn hệ về sức khỏe ở Tasmanian (5) đã phân tích dữ liệu về chức năng phổi thu thập năm 7 tuổi và 45 tuổi nhằm xác định liệu hô hấp ký lúc tuổi nhỏ có dự đoán được khả năng hình thành ACO khi trưởng thành hay không. Những cá nhân có chỉ số FEV 1 /FVC và FEV 1 % giá trị dự đoán lúc 7 tuổi phân bố ở tứ phân vị thấp nhất có tăng nguy cơ (tỷ số odd) mắc ACO năm 45 tuổi lần lượt là 16.3 và 2.9 lần, kể cả khi đã khử nhiễu yếu tố hút thuốc lá. Nguy cơ này vượt xa hơn so với mối liên hệ giữa chức năng phổi tuổi nhỏ và mắc COPD khi trưởng thành, trong khi không nhận thấy mối liên hệ nào giữa chức năng phổi tuổi nhỏ và Hen. Tác giả Marc M. và cs (13) đã khảo sát trên 26 chuyên gia về bệnh phổi (Hen và COPD) ở Tây Ban Nha năm 2015 và cho thấy 80% các chuyên gia đồng ý về thuật ngữ ACO như một phân nhóm nhỏ của phổi bệnh tắc nghẽn đường dẫn khí mạn tính. Cũng trong khảo sát này, có đến 88,5% chuyên gia đồng ý rằng ACO cần có một cách tiếp cận điều trị khác biệt so với COPD. Kết hợp ICS/LABA nên là lựa chọn đầu tay, và sau đó nâng bậc điều trị lên bộ ba ICS/LABA/LAMA cho những trường hợp nặng. Bằng những nghiên cứu của mình, tác giả Koltsida O. và cs (2) và tác giả Nguyễn Văn Thọ và cs (6) đã đưa ra nhận định rằng ACO có thể là một dạng bệnh riêng biệt trong phổ bệnh tắc nghẽn đường dẫn khí mạn tính với Hen và COPD là hai đầu tận của phổ bệnh này. Với các BN có bệnh tắc nghẽn đường dẫn khi mạn tính mà chưa thể phân loại là Hen hay COPD, thì ACO có thể là một thuật ngữ “tạm thời” (interim term) (2, 6). Vì vậy, khi chưa có một xét nghiệm chuyên biệt hoặc một tiêu chuẩn chẩn đoán rõ ràng cho ACO, các tác giả đều đồng thuận rằng khi tiếp cận BN có bệnh tắc nghẽn đường dẫn khí mạn tính, chúng ta nên mô tả các đặc điểm của bệnh hơn là cố gắng xếp loại BN vào một chẩn đoán nào đó. Từ các dữ kiện thu thập được của từng người bệnh, việc chọn lựa điều trị sẽ cá thể hóa cho từng BN. KẾT LUẬN Các BN ACO có 3 đặc điểm để nhận diện: có sự gia tăng hiện tượng viêm liên quan BCAT trong đường thở và toàn thân, có sự gia tăng đáp ứng hồi phục với test giãn phế quản và cuối cùng là có sự gia tăng đáp ứng với điều trị chứa ICS so với các BN COPD đơn thuần (3, 15). Gần đây nhất là hướng dẫn chung của GesEPOC-GEMA (4) đã đơn giản hóa việc chẩn đoán ACO, trong đó bắt buộc phải có yếu tố tiếp xúc với khói thuốc lá, mà trước đây là một điểm chưa được nhấn mạnh rõ trong hướng dẫn của GINA và GOLD. Dữ liệu từ các nghiên cứu về ACO đang ngày càng tăng lên trong 2 năm gần đây cho đến nay, tuy nhiên quan điểm của Tổng quan 20 Hô hấp số 16/2018 các tác giả về nguồn gốc và cách chẩn đoán ACO vẫn còn nhiều khác biệt. Vì vậy dù cho bạn theo trường phái nào, ACO là một bệnh độc lập hay ACO chỉ là sự có mặt đồng thời của Hen và COPD trên cùng một BN, thì một điều hiển nhiên rằng các BN ACO rất khác so với các BN Hen hoặc COPD về đặc điểm lâm sàng và dự hậu, đồng thời đáp ứng tốt hơn rất nhiều với điều trị có ICS (15). Tài liệu tham khảo 1. Pérez-de-Llano. Asthma-COPD overlap is not a homogeneous disorder: further supporting data. Respiratory Research. 2017; 18:183. 2. Koltsida O. The challenge of diagnosing ACOS. World J Respirol 2016; 6(2): 54-56. 3. Barrecheguren M. The asthma--COPD overlap syndrome: opportunities and challenges. Curr Opin Pulm Med 2015; 21:74–79. 4. V. Plaza. Consensus on the Asthma–COPD Overlap (ACO) Between the Spanish COPD Guidelines (GesEPOC) and the Spanish Guidelines on the Management of Asthma (GEMA). Arch Bronconeumol. 2017; 53(8):443–449. 5. Janice ML. Asthma-COPD overlap syndrome: pathogenesis, clinical features, and therapeutic targets. BMJ. 2017; 358:j3772. 6. Tho NV. Asthma–COPD overlap syndrome (ACOS): A diagnostic challenge. Respirology. 2016; 21, 410–418. 7. Wang YC. Asthma-COPD Overlap Syndrome (ACOS) among Subjects with Newly Diagnosed Adult-Onset Asthma. Allergy. 2018; 73(7):1554- 1557. 8. Dirkje SP. The Asthma–COPD Overlap Syndrome. N Engl J Med. 2015;373:1241-9. 9. Suzuki M. Asthma-like Features and Clinical Course of Chronic Obstructive Pulmonary Disease. An Analysis from the Hokkaido COPD Cohort Study. Am J Respir Crit Care Med. 2016;194(11):1358- 1365. 10. Cosío BG. Th-2 signature in chronic airway diseases: towards the extinction of asthma−COPD overlap syndrome?. Eur Respir J. 2017; 49: 1602397. 11. Alexa N. Diagnostic Criteria for the Asthma-COPD Overlap (ACO) Still Room for Improvement. Int J Pul & Res Sci. 2017; 002 1(4): 555569. 12. Sy DQ. Clinical and Functional Characteristics of Subjects with Asthma, COPD, and Asthma-COPD Overlap: A Multicentre Study in Vietnam. Canadian Respiratory Journal. 2018; 1732946. 13. Miravitlles M. What pulmonologists think about the asthma–COPD overlap syndrome. International Journal of COPD. 2015;10: 1321–1330. 14. Gao J. Characterization of sputum biomarkers for asthma–COPD overlap syndrome. International Journal of COPD 2016; 11: 2457–2465. 15. Barrecheguren M. The asthma-COPD overlap syndrome: a new entity?. COPD Research and Practice. 2015; 1:8.
File đính kèm:
aco_la_hen_hay_copd_hay_ca_hai.pdf

