5 vấn đề đặt ra cho khoa văn hóa du lịch trong “Hành trình kỷ niệm 55 năm đại học văn hóa Hà Nội”

Tóm tắt

Nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo luôn là yêu cầu sống còn của bất cứ một cơ sở đào tạo nào.

Tuy nhiên, mỗi cơ sở đào tạo, tùy theo đặc thù của mình lại có bước đi và biện pháp nhất định. Bước

qua thời gian 20 năm đào tạo, với những thành tích to lớn, vững chắc, Khoa Văn hóa Du lịch (Trường

Đại học Văn hóa Hà Nội) đang tiếp tục đổi mới trong “Hành trình kỷ niệm 55 năm Đại học Văn hóa Hà

Nội” với những niềm tin và sức bật mới. Để không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo,

đáp ứng yêu cầu đào tạo theo nhu cầu và yêu cầu của xã hội, Khoa Văn hóa Du lịch cần giải quyết tốt

5 vấn đề: đổi mới nhận thức trong mục tiêu đào tạo, xây dựng con người (người dạy và người học), xây

dựng và thực hiện chương trình, xây dựng cơ sở vật chất, giải quyết vấn đề thu nhập cho giảng viên.

pdf 5 trang phuongnguyen 9340
Bạn đang xem tài liệu "5 vấn đề đặt ra cho khoa văn hóa du lịch trong “Hành trình kỷ niệm 55 năm đại học văn hóa Hà Nội”", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: 5 vấn đề đặt ra cho khoa văn hóa du lịch trong “Hành trình kỷ niệm 55 năm đại học văn hóa Hà Nội”

5 vấn đề đặt ra cho khoa văn hóa du lịch trong “Hành trình kỷ niệm 55 năm đại học văn hóa Hà Nội”
27Số 6 - Tháng 12 - 2013
VĂN HÓA VÀ NHÀ TRƯỜNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
5 VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO KHOA VĂN HÓA DU LỊCH 
TRONG “HÀNH TRÌNH KỶ NIỆM 55 NĂM 
ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI”
DƯƠNG VĂN SÁU
Tóm tắt
Nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo luôn là yêu cầu sống còn của bất cứ một cơ sở đào tạo nào. 
Tuy nhiên, mỗi cơ sở đào tạo, tùy theo đặc thù của mình lại có bước đi và biện pháp nhất định. Bước 
qua thời gian 20 năm đào tạo, với những thành tích to lớn, vững chắc, Khoa Văn hóa Du lịch (Trường 
Đại học Văn hóa Hà Nội) đang tiếp tục đổi mới trong “Hành trình kỷ niệm 55 năm Đại học Văn hóa Hà 
Nội” với những niềm tin và sức bật mới. Để không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo, 
đáp ứng yêu cầu đào tạo theo nhu cầu và yêu cầu của xã hội, Khoa Văn hóa Du lịch cần giải quyết tốt 
5 vấn đề: đổi mới nhận thức trong mục tiêu đào tạo, xây dựng con người (người dạy và người học), xây 
dựng và thực hiện chương trình, xây dựng cơ sở vật chất, giải quyết vấn đề thu nhập cho giảng viên.
Từ khóa: Văn hóa du lịch, hành trình
Abstract
Enhancing education - training quality is always the vital requirement of any educational institutes. 
However, each educational institutes, depending on its specific characteristics, has its own measures 
and steps. With 20 years of experience in training, with great and firm achievements, Faculty of Cultural 
Tourism (Hanoi University of Culture) has been innovating in “ the itinerary of 55th anniversary of Hanoi 
University of Culture” with new confidence. In order to enhance continuously the training quality and 
efficiency, to meet the demand and requirement of the society, Faculty of Cultural Tourism need to solve 
5 issues well: innovating the awareness in training target, building the human (lecturer and learner), 
establishing and implementing the program, constructing the material facilities, solving the income 
issue to lecturer.
Keyword: Cultural tourism, itinerary
Trong “Hành trình tuổi 20” kỷ niệm 20 năm đào tạo Văn hóa Du lịch (1993-2013), năm 2013, Khoa Văn 
hóa Du lịch (VHDL) Trường Đại học Văn hóa 
Hà Nội đã tiến hành thành công 10 sự kiện 
nổi bật, bao gồm: 
1. Chương trình “Tuổi 20 - Xin chào” tổ chức 
ngày 12/12/2012, chào đón các sinh viên VHDL 
khóa 20.
2. Tổ chức chuyến “Hành trình về Chiến khu 
Việt Bắc, thủ đô gió ngàn” ngày 25/12/2012 
cho các Ban cán sự và Bí thư các chi đoàn của 
sinh viên Khoa VHDL.
3. Tổ chức chương trình nhảy FlashMob của 
sinh viên VHDL ngày 26/3/2013, chào mừng 
ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ 
Chí Minh.
Số 6 - Tháng 12 - 201328
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
4. Phát động các giảng viên của Khoa tham 
gia viết bài chuyên sâu về đào tạo VHDL cho 
Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa của Trường Đại 
học Văn hóa Hà Nội số tháng 6/2013.
5. Tổ chức chuyến Hành trình khám phá 
con đường Di sản miền Trung tháng 7/2013 
cho 5 lớp với tổng số 425 sinh viên thuộc hai 
hệ Đại học và Cao đẳng VHDL.
6. Tổ chức cuộc thi “Hành trình cùng Hướng 
dẫn viên du lịch năm 2013”, chủ đề “Văn minh 
sông Hồng” vào tháng 11/2013; tham dự có 5 
đội thi của Khoa.
7. Ngày 19.11.2013, nhân ngày Nhà giáo 
Việt Nam, Khoa VHDL tổ chức cuộc gặp gỡ 
trang trọng, ấm cúng các thế hệ giáo chức, 
giảng viên, các cựu cán bộ lãnh đạo Trường và 
Khoa qua các thời kỳ từ 1993 đến 2013.
8. Tổ chức Hội thảo khoa học để “Nhận xét, 
góp ý nội dung, chương trình, tập bài giảng 
các môn học ngành Việt Nam học theo hình 
thức tín chỉ”, ngày 2/12/2013.
9. Tổ chức cuộc diễu hành “Hành trình tuổi 
20” diễn ra ngày chủ nhật 8/12/2013 của giáo 
viên và 200 sinh viên đi xe đạp với cờ hoa và 
đồng phục của khoa trên các đường phố của 
thủ đô Hà Nội.
10. Tổ chức trang trọng Lễ kỷ niệm 20 năm 
đào tạo VHDL ngày 10/12/2013 với sự tham gia 
đông đảo các thế hệ sinh viên VHDL và quí đại 
biểu.
Với bề dày thành tích 20 năm đào tạo cử 
nhân VHDL, Khoa đã góp phần không nhỏ 
trong việc đào tạo và cung ứng nguồn nhân 
lực du lịch chất lượng cao cho đất nước. Tuy 
đã đạt nhiều thành tích khả quan và rất đáng 
tự hào nhưng bước sang năm thứ 21 này, cùng 
với những công việc hướng tới kỷ niệm 55 
năm thành lập Trường Đại học Văn hóa Hà Nội 
(1959-2014), nhiều vấn đề đã và đang tiếp tục 
đặt ra cho Khoa VHDL. Vấn đề quan trọng nhất 
chính là yêu cầu đổi mới đào tạo theo nhu cầu 
và yêu cầu xã hội trong đào tạo nhân lực cho 
ngành du lịch. Để nâng cao chất lượng đào 
tạo, Trường và Khoa cần giải quyết tốt 5 vấn đề 
đặt ra từ thực tiễn đào tạo hiện nay, như sau: 
Vấn đề thứ nhất, cần đổi mới nhận thức 
trong mục tiêu đào tạo. Tên gọi của Khoa: 
“Khoa Văn hóa du lịch” cũng đồng thời là tên 
gọi một chuyên ngành khoa học: “chuyên 
ngành Văn hóa du lịch”. Về cụm từ này, trong 
xã hội vẫn còn có những nhận thức khác 
nhau? Nhiều người vẫn nhầm lẫn Văn hóa du 
lịch với Du lịch văn hóa, một số người khác lại 
gọi bằng cụm từ “văn hóa - du lịch”, “văn hóa, 
du lịch” Bằng kết quả nghiên cứu phục vụ 
giảng dạy và đưa vào thực tế đào tạo, chúng 
tôi rút ra nhận thức: “VHDL là khoa học nghiên 
cứu, khai thác các giá trị văn hóa để phát triển 
du lịch”. Xét dưới góc độ nghề nghiệp, VHDL 
chính là văn hóa của người làm du lịch, làm du 
lịch có văn hóa; là văn hóa kinh doanh trong 
lĩnh vực du lịch, là kinh doanh du lịch có văn 
hóa đồng thời là văn hóa ứng xử - giao tiếp của 
các đối tượng khách du lịch trong quá trình du 
lịch.v.v... VHDL (Tourism Culture Studies) có thể 
hiểu theo một cách khác: là khoa học nghiên 
cứu về văn hóa và du lịch để tạo nên các sản 
phẩm du lịch mang đậm bản sắc văn hóa Việt 
Nam. VHDL là khoa học ứng dụng, sử dụng các 
thành quả trong nghiên cứu văn hóa đưa vào 
trong quá trình kinh doanh du lịch. Nó (tức 
VHDL) là xu hướng biến đổi và phát triển của 
văn hóa ứng dụng trong lĩnh vực du lịch đồng 
thời là những biểu hiện cụ thể của kinh tế văn 
hóa diễn ra trong quá trình CNH - HĐH đất 
nước hiện nay. Điều đó hoàn toàn đúng với tên 
gọi Du lịch là ngành công nghiệp không khói, 
công nghiệp sạch trong giai đoạn hiện nay và 
sau này. Việc khẳng định và thể hiện vai trò của 
VHDL trong kinh tế du lịch là một câu chuyện 
dài sẽ còn phải được tiếp tục nghiên cứu, trao 
đổi và thảo luận. 
Mục tiêu của VHDL là biến những tiềm 
năng văn hóa - lịch sử thành các sản phẩm 
du lịch đặc hữu, giúp cho các đối tượng du 
khách “ngược nguồn lịch sử”, tìm và làm sống 
29Số 6 - Tháng 12 - 2013
VĂN HÓA VÀ NHÀ TRƯỜNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
lại những giá trị đích thực của văn hóa Việt Nam 
qua trường kỳ lịch sử! Cách tiếp cận mới đó đã 
tạo nên nhận thức mới về du lịch ở Việt Nam. 
Chính nhận thức sẽ quyết định hành động và 
những nhận thức đúng đắn về văn hóa Việt 
Nam sẽ tạo những bước đi đúng đắn cho việc 
phát triển du lịch ở Việt Nam. Xét về bản chất, 
du lịch là quá trình tìm kiếm để thỏa mãn 
những nhu cầu khác nhau của con người trong 
những khoảng thời gian và không gian nhất 
định. Du lịch Việt Nam muốn phát triển bền 
vững, cần phải xác định rõ, chúng ta có những 
gì và sẽ làm những gì? Làm như thế nào để 
đáp ứng và làm thỏa mãn những nhu cầu đa 
dạng của các đối tượng khách nội địa và khách 
quốc tế? Việt Nam là quốc gia đang phát triển, 
đi sau thế giới trên rất nhiều phương diện, 
vậy phải có cách đi riêng, phương pháp riêng 
tạo nên ấn tượng và sự khác biệt. Trên cơ sở 
thông lệ quốc tế và truyền thống bản địa, du 
lịch Việt Nam muốn phát triển phải tạo ra nét 
bản sắc độc đáo của mình. Suy cho đến cùng, 
kinh doanh du lịch là kinh doanh ấn tượng. Ấn 
tượng và sự khác biệt là yếu tố tạo nên thành 
công của du lịch Việt Nam. Ấn tượng và khác 
biệt của du lịch Việt Nam không gì khác chính 
là văn hóa và VHDL sẽ góp phần quyết định 
đến sự phát triển bền vững của du lịch Việt 
Nam. Yếu tố đó có được là một phần của quá 
trình đi tìm những bài học từ quá khứ 
Vấn đề thứ hai là xây dựng con người: bao 
gồm người dạy và người học. Cho đến hiện 
nay, hầu hết các nước trên thế giới đều cho 
rằng tài nguyên lớn nhất của một quốc gia là 
con người, là nguồn nhân lực chứ không phải 
là nguồn tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, vấn đề 
đặt ra với Khoa VHDL cũng như với bất cứ một 
tổ chức nào khác là vấn đề con người. Vấn đề 
này muôn năm cũ và muôn năm đúng. Nhưng 
với Khoa VHDL cần phải cụ thể hóa như sau:
- Đối với đội ngũ giáo viên: phải có được 
cơ chế, chính sách và biện pháp khả dụng để 
tất cả giáo viên không ngừng nâng cao nhận 
thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Những 
phương pháp cụ thể là đào tạo, bồi dưỡng 
và đào tạo lại, đào tạo bổ sung, đào tạo nâng 
cao. Việc khảo hạch nghiêm túc là cần thiết để 
đánh giá trình độ, khả năng theo đúng chuyên 
môn để bố trí lại công việc, trả lương và thù 
lao đúng người, đúng việc. Việc lấy ý kiến sinh 
viên về chất lượng giảng dạy để là một kênh 
tham khảo quan trọng đánh giá khách quan, 
công bằng, đội ngũ giảng viên. Phương châm: 
“lấy nhiều người học đánh giá một người dạy” 
là khách quan, công bằng, tuy nhiên, cũng 
vẫn cần phải kết hợp với hình thức “lấy đồng 
nghiệp đánh giá đồng nghiệp” là chính. Đây là 
những vấn đề đúng, ai cũng nhận thức được 
nhưng sẽ rất khó thực hiện trong tình thế 
chung hiện nay. 
- Đối với người học: Trong những năm tới, 
việc tuyển sinh vẫn phải kế thừa những thành 
tựu của quá khứ, kết hợp với sự thay đổi về cơ 
chế, phương thức tuyển sinh do Bộ Giáo dục 
và Đào tạo qui định. Khoa Văn hóa du lịch đến 
nay vẫn thi tuyển bằng hai khối D1 và C theo 
truyền thống. Tuy nhiên, cần thử nghiệm một 
vài hình thức thi khác, trong đó có phỏng vấn, 
thuyết trình, xử lý tình huống.v.v để chọn ra 
những người có khả năng thích ứng cao, đáp 
ứng được yêu cầu đặt ra của nghề du lịch. Về 
tiếp thị trong tuyển sinh, cần phải tăng chi phí 
để tạo ra “sức nặng của lời mời gọi”. Đầu tư cho 
tuyển sinh có ý nghĩa quan trọng để chọn đầu 
vào có chất lượng và trình độ tương đối tốt, 
cần nâng dần tiêu chí đầu vào theo một lộ 
trình tương ứng với điều kiện về đội ngũ giảng 
viên cũng như cơ sở hạ tầng dành cho đào tạo. 
Vấn đề thứ ba xây dựng và tổ chức thực 
hiện chương trình đào tạo. Khi đã có nhận 
thức đúng, có đội ngũ dạy và học đạt chất 
lượng thì việc xây dựng chương trình đảm bảo 
theo các tiêu chí: phát huy truyền thống - đáp 
ứng hiện tại – định hướng tương lai là việc làm 
quan trọng, giữ vai trò quyết định. Phương 
châm “đào tạo theo nhu cầu và yêu cầu xã hội” 
là một phương châm đúng mà Nhà nước và Bộ 
Giáo dục - Đào tạo đã đặt ra đối với hệ thống 
Số 6 - Tháng 12 - 201330
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
đào tạo nghề ở Việt Nam hiện nay. Muốn làm 
tốt điều này, vấn đề trao quyền tự chủ cho các 
đơn vị đào tạo là vấn đề quyết định. Nội dung 
này sẽ đặt ra vấn đề lớn của công tác quản lý 
và điều hành đào tạo. Sẽ luôn xuất hiện mâu 
thuẫn khi phải giải quyết bài toán giữa cung 
và cầu; giữa ngân sách nhà nước và vốn tự tạo. 
Câu trả lời là phải tạo được sự hài hòa giữa các 
phương diện đó ở các trường công lập hiện 
nay. Chương trình đào tạo cần phải linh hoạt 
hơn. Yếu tố năng động của thị trường đòi hỏi 
sự mềm dẻo, linh hoạt trong việc thực hiện 
chương trình. Trong quá trình xây dựng nền 
kinh tế thị trường, xu thế “kinh tế hóa” mọi mặt 
của đời sống xã hội xuất hiện ở mọi nơi, mọi 
lúc. Đã có ý kiến cho rằng Khoa VHDL nên phát 
triển đào tạo theo hướng quản trị kinh doanh. 
Điều này đúng nhưng không phù hợp với khả 
năng và điều kiện hiện nay của Khoa bởi nguồn 
lực con người chưa cho phép. Nguồn nhân lực 
tham gia đào tạo của Khoa VHDL khá mạnh về 
văn hóa nhưng lại chưa mạnh về kinh tế, trong 
khi Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp. Lấy 
cái sở trường của mình để thực thi thay vì sở 
đoản thì hiệu quả chắc chắn sẽ cao hơn. Động 
năng văn hóa vốn tiềm ẩn cộng với thế năng 
vận động của 20 năm đào tạo Văn hóa du lịch 
đã quyết định xu hướng không thể cưỡng lại 
của mục tiêu đào tạo đã và đang diễn ra hiện 
nay. Việc xây dựng các chuyên ngành đào tạo 
để hướng tới đào tạo các chuyên môn sâu 
là sự chuyển hướng cho việc đào tạo chung 
chung trước đây. Đó chính là sự chuyển đổi 
theo đào tạo nghề du lịch. Chương trình của 
Khoa VHDL đã và đang được hoàn thiện theo 
hướng đào tạo chuyên ngành, đặt ra một vấn 
đề lớn: 3 chuyên ngành được xây dựng hiện 
nay (Văn hóa Du lịch; Lữ hành - Hướng dẫn du 
lịch; Quản lý du lịch) đã yêu cầu phải biên soạn 
một bộ giáo trình, giáo án với kiến thức và kỹ 
năng phù hợp. Từng bước xây dựng và hoàn 
thiện bộ giáo trình đào tạo nghề du lịch với 
chuyên môn sâu, cơ bản, cập nhật, mang tính 
hệ thống, liên ngành và xã hội hóa cao là một 
công việc lớn đòi hỏi nhiều tâm sức. Nhiều 
môn học mới tuy đáp ứng được yêu cầu từ 
thực tế kinh doanh du lịch nhưng khoảng cách 
giữa lý thuyết và thực tế còn khá xa. Công việc 
cần sức mạnh của trí tuệ tập thể, của Hội đồng 
khoa học đào tạo Khoa để xây dựng đề cương 
chi tiết, bài giảng và cao hơn nữa là các bộ giáo 
trình chuyên môn. Quá trình đào tạo các môn 
học mới này cũng cần sự hỗ trợ của các doanh 
nhân và doanh nghiệp trong ngành du lịch. Từ 
đây đặt ra vấn đề Đào tạo theo địa chỉ. Liên kết 
giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp là yếu tố 
quyết định thành công của việc đào tạo theo 
nhu cầu và yêu cầu xã hội. Khoa VHDL muốn 
được lắng nghe ý kiến trao đổi của các doanh 
nhân đại diện cho các doanh nghiệp du lịch về 
vấn đề này.
Vấn đề thứ tư, cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ 
tầng cho đào tạo du lịch. Mức độ cạnh tranh 
trong đào tạo ngày càng gay gắt và khốc liệt. 
Câu nói “thương trường là chiến trường” được 
nhiều người nhắc tới trong “mặt trận đào tạo” 
về du lịch hiện nay. Nếu nói như vậy thì 20 năm 
nay, khoa VHDL đã sử dụng chiến thuật “tay 
không đánh/bắt giặc”. Hình thức chiến thuật 
này chỉ phù hợp với quá khứ khi đào tạo đa cấp 
trong nhất cấp, tổng hợp trong tổng thể. Hiện 
nay khi đào tạo chuyên ngành, chuyên sâu, 
nhất thiết phải có trang thiết bị thích hợp mới 
tồn tại và phát triển được. Trong “trận chiến” 
không khoan nhượng hiện nay, những chiến 
thuật của quá khứ cần phải được tái trang bị 
những vũ khí thích hợp, khả dĩ mới mang về 
chiến thắng. Cụ thể là cần có những điều kiện 
tối thiểu về cơ sở vật chất kỹ thuật, phòng học 
thực hành, phòng học theo công năng phục 
vụ chuyên môn. Đội ngũ giáo viên giảng dạy 
theo phương thức tín chỉ phải sử dụng được 
công nghệ để phục vụ giảng dạy; thay thế và 
bổ sung những trang giáo án thuần túy, những 
hình thức độc giảng trên lớp bằng sự trợ giúp 
của phương tiện và phương pháp mới, tránh 
các hình thức đọc chép vẫn còn tồn tại; phát 
triển thêm những kỹ năng mềm cho sinh viên 
thông qua các hoạt động thực tế; mở rộng các 
31Số 6 - Tháng 12 - 2013
VĂN HÓA VÀ NHÀ TRƯỜNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
tài liệu tham khảo để sinh viên tự đọc, tự học 
nhưng có phân bố theo chủ đề, có thời gian 
tập trung trao đổi, thảo luận; khai thác có hiệu 
quả thời gian tự học của sinh viên.v.v 
Vấn đề thứ năm là thu nhập của đội ngũ 
giảng viên. Đây là một trong những câu 
chuyện đầu tiên được bàn đến khi làm một 
việc gì đó nhưng lại cũng là kết quả cuối cùng 
khi tổng kết việc làm đó. Với những giảng viên 
trong các cơ sở đào tạo công lập, hưởng lương 
từ ngân sách thì việc tồn tại và phát triển cơ sở 
đào tạo, nơi mình công tác chính là yếu tố đảm 
bảo cho thu nhập chính. Bên cạnh đó phải 
phát triển các loại hình, hình thức đào tạo để 
tăng thu nhập. Muốn vậy phải nâng cao trình 
độ giảng viên, xây dựng thương hiệu, hình 
ảnh; tạo lập vị thế vững chắc trong thị trường 
đào tạo. Người cán bộ giảng viên phải tham 
gia vào nhiều lĩnh vực đào tạo, tham gia vào 
hoạt động đào tạo ở nhiều cơ sở đào tạo trong 
và ngoài công lập thì mới tăng thu nhập. Điều 
này cần sự hỗ trợ chuyên môn từ nơi công tác 
chính, xây dựng kế hoạch làm việc khoa học, 
hợp lý để không dẫn đến sự chồng chéo về 
mặt thời gian và công việc của các giảng viên. 
Tăng thu nhập từ thực tế công việc để “cầu 
hiền”, thu hút nhân lực chất lượng cao luôn là 
vấn đề cần phải giải quyết của cả bộ máy lãnh 
đạo Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Việc thu 
nhập của đội ngũ giảng viên có liên quan đến 
số lượng giờ dạy và mức chi trả cho các giờ dạy 
của họ. Đây cũng luôn là vấn đề được đặt ra 
đối với các qui chế, quy định của nhà trường.
Nằm trong sự đổi mới toàn diện, triệt để, 
vững chắc của Trường Đại học Văn hóa Hà Nội 
trong hành trình kỷ niệm 55 năm thành lập, 
ngành VHDL đã bước qua tuổi thứ 20 của mình 
với những thành tích không thể phủ nhận 
cùng với sự phát triển tất yếu của ngành du 
lịch Việt Nam. Những thời cơ lớn luôn thường 
trực, song hành cùng sự phát triển của Khoa 
VHDL nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức to 
lớn. Chất lượng, hiệu quả đào tạo chính là yếu 
tố sống còn của Khoa. Cạnh tranh đa cấp, đa 
phương diện là một thách thức đồng thời là 
cơ hội để Khoa khẳng định và thể hiện mình 
trước những thời điểm mang tính bước ngoặt 
hiện nay. Với tất cả những gì đã và đang làm 
được Khoa VHDL nhận thấy có đủ khả năng, 
trình độ, sự tự tin và bản lĩnh giải quyết tốt 5 
vấn đề nêu trên để phát triển không ngừng và 
vững chắc.
 D.V.S
(TS, Trưởng khoa Văn hóa du lịch)
Tài liệu tham khảo
1. Antonio Machado, Du lịch và phát triển bền 
vững (Tourism and Sustainable Development), 
trong Dự án Xây dựng năng lực cho phát triển 
Du lịch ở Việt Nam, VNAT và FUNDESO, Hà Nội, 
2/2003. 
2. Luật Di sản Văn hóa và Nghị định hướng dẫn 
thi hành, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
3. Luật Du lịch, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 
2006.
4. Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình (Chủ 
biên) (2001), Kinh tế du lịch & Du lịch học, Nxb. Trẻ, 
TP Hồ Chí Minh.
5. Dương Văn Sáu (2004), Lễ hội Việt Nam trong 
sự phát triển Du lịch, Giáo trình Trường ĐHVH Hà 
Nội. 
6. Dương Văn Sáu (2008), Di tích lịch sử - văn 
hóa và danh thắng Việt Nam, Giáo trình, Nxb. Đại 
học Quốc gia Hà Nội.
7. Lê Hồng Lý (chủ biên) (2010), Dương Văn 
Sáu, Đặng Hoài Thu, Quản lý di sản văn hóa với 
phát triển du lịch, Giáo trình, Nxb. Đại học Quốc 
gia Hà Nội.
8. Dương Văn Sáu (2014), Hệ thống di tích Nho 
học Việt Nam và các Văn miếu tiêu biểu ở Bắc Bộ, 
Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
9. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn 
hóa Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
 Ngày nhận bài: 2 - 4 - 2013
Ngày phản biện, đánh giá: 6 - 9 - 2013
Ngày chấp nhận đăng: 9 – 12 - 2013

File đính kèm:

  • pdf5_van_de_dat_ra_cho_khoa_van_hoa_du_lich_trong_hanh_trinh_ky.pdf